CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN
NĂM A
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mt 10,37-42
“Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.
“Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
“Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
II. SUY NIỆM.
“ƯU TIÊN TRONG VIỆC CHỌN LỰA”
Để theo Chúa, chúng ta sẽ bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian, chọn hy sinh từ bỏ hay thoả hiệp tình cảm, thú vui, danh vọng và quyền lực. Đức Giê-su đòi những ai tin Người phải sẵn sàng vượt lên và thậm chí trên cả tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khoát chọn Chúa và bước theo Người
Lời của Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay khẳng định sự chọn lựa dứt khoát ấy. Chúa mời gọi vượt qua mọi ràng buộc cá nhân để sống tương quan với Chúa bằng các tương quan đức ái với tha nhân:
1. Thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn.
“Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).
Phải chăng Chúa Giê-su đặt ra một điều kiện của Chúa quá khó? Sở dĩ Người đưa ra điều kiện như vậy để nói lên một sự dứt khoát chứ không phải nửa vời. Người không khuyến khích việc vô ơn bất hiếu với cha mẹ, hoặc phải sống vô tâm vô tình với người thân, nhưng là Người muốn nhấn mạnh đến sự ưu tiên chọn Chúa là trên hết và Người đòi hỏi sự so sánh hơn kém khi phải chọn lựa. Nếu phải chọn lựa giữa Đức Giê-su với cha mẹ và người thân, thì những người quyết tâm theo Chúa phải dám chọn Chúa Giê-su là gia nghiệp.
Bỏ cha, bỏ mẹ, vợ con, anh em là bỏ những cái gì ngoài mình, nhưng Chúa còn đòi hỏi hơn nữa là dám bỏ cả mạng sống nếu phải làm chứng cho Chúa.
2. Từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa.
“Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,38-39).
Thời bách hại mà các thánh tử đạo đã thực hiện trọn vẹn theo nghĩa chặt đã qua, nhưng ngày hôm nay, chính mỗi Ki-tô hữu cũng vẫn luôn phải đứng trước một chọn lựa: một bên là chọn Chúa và một bên là chọn những thứ thuộc vật chất.
Điều khó từ bỏ hơn cả là “bỏ mình”, nghĩa là bỏ chính cái tôi ngầm ý hay minh nhiên tham vọng địa vị và lợi lộc cho mình, muốn biến mình làm trung tâm và làm cho sự hướng thiện không còn chỗ đứng trong tâm hồn của mình nữa.
Chúa không đòi chúng ta phải vác thập giá của Chúa, cũng không buộc chúng ta phải vác thập giá của anh em, mà Chúa muốn chúng ta vác thập giá của chính mình, là trách nhiệm trong bậc sống của mình.
Từ bỏ không phải một lần là đủ, mà nó sẽ là một cuộc chiến liên tục trong cuộc đời mỗi người. Chúng ta luôn bị cám dỗ tìm kiếm hơn là từ bỏ; thu tích, giữ chặt những gì chúng ta có, hơn là cho đi; chúng ta còn bị cản trở, níu kéo bởi bao nhiêu thứ tình cảm khiến chúng ta chưa sẵn sàng để theo Chúa.
3. Hoa trái của lòng bác ái
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy… Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10,40.42).
Chúa Giê-su khẳng định về chiều kích tương quan hàng dọc với Thiên Chúa dựa trên tương quan đức ái với đồng loại. Khi chúng ta làm điều gì cho anh em là chúng ta đang làm cho chính Chúa Giê-su và cũng đồng thời đang làm cho Chúa Cha.
Việc bác ái dù nhỏ nhất nhưng luôn có giá trị cứu độ. Thiên Chúa sẽ trả lẽ cho chúng ta trong Nước của Người bằng với những gì chúng ta đã trao tặng cho tha nhân, dù chỉ là một bát nước lã thì Thiên Chúa cũng ghi nhận.
Con người không thể mang được bất cứ một thứ của cải vật chất nào theo mình về thế giới bên kia, bởi tất cả sẽ ở lại sau cái chết. Thế nhưng con người cứ lo vun vén và giữ khư khư nó, giữ lại đến mức dư thừa mà không chia sẻ cho người đói khát bất hạnh, lo thu tích để rồi lúc chết đi phải để lại cho người khác tận hưởng. Họ không ý thức được rằng, chỉ có lòng bác ái và những gì chia sẻ cho tha nhân vì tình yêu thương thì sẽ theo họ về cõi vĩnh hằng.
Vấn đề được Thiên Chúa ân thưởng không hệ tại ở giàu hay nghèo, cũng không hệ tại ở việc cho hàng tỷ đồng hay chỉ là một bát nước lã, nhưng là biết sống tương quan đức ái với tha nhân, giúp đỡ nhau vì lòng mến Chúa và yêu đồng loại. Người cho nhau một ly nước vì Chúa thì có giá trị hơn gấp bội so với người cho cả gia tài chỉ vì được ca tụng đời này.
Lạy Chúa Giê-su, bước đường theo Chúa đòi hỏi chúng con một sự chọn lựa dứt khoát là chỉ chọn Chúa và sống tương quan với Ngài bằng tương quan đức ái với tha nhân. Xin cho chúng con biết từ bỏ sự lôi kéo mời chào hấp dẫn hào nhoáng giả tạo mà xã hội đang bày ra để làm lạc hướng chúng con, để biết sống có kỷ luật đối với bản thân, có trách nhiệm với chính mình và với gia đình và với quê hương giáo xứ chúng con. Amen.
Hiền Lâm
NĂM B
I. ĐỌC TIN MỪNG: Mc 5,21-43
Đức Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi? ” Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi? ” Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”
Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa? ” Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! ” Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! ” Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.
II. SUY NIỆM
“NIỀM TIN – KIÊN NHẪN VÀ CAN ĐẢM”
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giê-su đến nhà ông Giairô là trưởng hội đường để chữa cho con gái của ông được sống lại. Câu chuyện bị gián đoạn bởi trên đường đi xảy ra việc xuất hiện một phụ nữ bị bệnh loạn huyết lẻn vào đám đông vây quanh Chúa Giê-su để chạm và Người. Xuyên suốt tường thuật nổi bật lên chứng từ niềm tin của hai nhân vật và Chúa Giê-su đã ra tay thực hiện điều họ ao ước bởi niềm tin của họ.
1. Niềm tin và sự can đảm.
“Lòng tin của con đã cứu con”. Hầu như mọi lần chữa lành bệnh tật cho ai, Chúa Giê-su đều nói đến lòng tin đã cứu họ. Đức Tin là điều kiện đầu tiên để được chữa lành và phép lạ xảy ra khi thụ nhân tin vào Đấng chữa lành.
Người phụ nữ bị loạn huyết mang trên mình vừa căn bệnh thân xác vừa cả nỗi đau tinh thần. Thân xác bị đau đớn và ra dơ dáy, tinh thần đau khổ vì bị mọi người xa lánh vì sợ bị nhiễm uế theo luật. Bởi sách Lê-vi quy định ai bị loạn huyết sẽ phải bị coi là ô uế, ai chạm đến họ thì cũng bị ra ô uế, họ đụng đến thứ gì thì thứ đó ra ô uế, và ai đụng đến những thứ người ô uế đã ngồi hay nằm lên thì cũng bị ô uế (x. Lv 15,18-30). Như vậy, người bị rong huyết nếm trải tận cùng của nỗi đau và tuyệt vọng: tuyệt vọng vì đã mười hai năm tán gia bại sản, tuyệt vọng vì bệnh vô phương cứu chữa, tuyệt vọng vì bị loại trừ khỏi cộng đồng. Thế nhưng, người phụ nữ bị loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay đã liều lĩnh vượt lên trên mọi mặc cảm và sự cấm kỵ để được chạm vào Chúa Giê-su.
Thật vậy, hôm nay Chúa Giê-su đang trên đường đi, đám đông chen lấn vây quanh Chúa Giê-su, vì ai cũng sợ bị nhiễm uế theo luật, nên nếu xuất hiện một kẻ ô uế trà trộn chen vào đụng hết người này qua người khác, thì chắc chắn sẽ phải mang tội chết. Nhưng không, chính niềm tin vào Đấng duy nhất có thể chữa căn bệnh quái ác của mình, người phụ nữ đã liều lĩnh lẻn vào đám đông để được gặp Chúa Giê-su. Niềm tin đó còn mãnh liệt hơn khi bà nghĩ rằng, chỉ cần được chạm vào gấu áo Chúa thôi là được khỏi rồi, và niềm tin của bà đã được đền đáp khi Chúa Giê-su phát hiện ra và nói với bà với lời đầy cảm thông yêu thương: “Này con, đức tin của con đã chữa con”.
Như vậy, đức tin đôi khi cần một sự can đảm và liều lĩnh, vượt trên mọi mặc cảm và cả sự nguy hiểm để được chạm vào Chúa Giê-su.
Mọi người chúng ta muốn đến được với Chúa rất cần một sự can đảm và liều lĩnh, nhất là khi chúng ta đang sống trong sự bi đát của tội lỗi, sống tách biệt với cộng đoàn đã lâu năm, bị mọi ngăn trở xã hội và cả tôn giáo tạo nên ngăn cản chúng ta đến với Chúa. Hãy can đảm đứng lên, mau chạy đến Bí tích hoà giải để được Chúa chữa lành thương tích linh hồn, để hoà nhập với cộng đồng. Hãy chạy đến Bí tích Thánh Thể để tâm hồn được chạm đến Chúa Giê-su và sinh lực từ Thánh Thể sẽ phát ra làm cho chúng ta nên mạnh mẽ.
2. Niềm tin và lòng kiên nhẫn.
“Đừng sợ! Cứ vững tin”. Thông thường, việc chữa bệnh của Chúa Giê-su xảy ra tại nơi Người đang giảng dạy hoặc đang trên hành trình, đôi khi Người chữa bệnh từ xa bằng cách nói: “Ông về đi, con ông sống…”. Nhưng hôm nay, khi Chúa Giê-su đang giảng dạy, có ông Giai-rô đến sụp lạy xin chữa lành cho con gái ở nhà, Chúa Giê-su lại lên đường đi với ông về nhà. Quãng đường không biết bao xa, nhưng vì đám đông đi theo chen lấn, và xuất hiện một bà bị loạn huyết chen vào ‘phá đám’ nên chưa đến nơi thì có người đến báo là con ông Giai-rô đã chết. Có lẽ lúc này đức tin của ông trưởng hội đường bị đặt trước một thử thách rất lớn bởi lẽ ra Chúa Giê-su đã có thể đến sớm hơn để “bệnh nhân không chết nếu bác sĩ Giê-su đến kịp”. Thế nhưng Chúa Giê-su đã vội trấn an: “Ông đừng sợ, cứ vững tin!”. Và vì vững tin mà con gái ông Giairô đã được Chúa cho hồi sinh.
Cũng vậy, hành trình đức tin của mọi Ki-tô hữu chúng ta là một chặng đường dài, đôi khi còn bị gián đoạn với bao yếu tố ngoại cảnh mà chúng ta không lường trước được, thậm chí có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng. Nhưng nếu chúng ta vững chí như ông Giairô thì sẽ được cứu.
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta luôn vững tin vào Chúa dù gặp phải bao khó khăn thử thách. Đức tin được rạng ngời nhờ sự thanh luyện gian nan và trường kỳ. Đức tin đòi hỏi một sự can đảm liều lĩnh và một sự kiên nhẫn vững tâm, để nhờ đó chúng ta mới đạt đến chân lý cuối cùng là Ơn Cứu Độ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm bước theo Chúa giữa những thử thách đau thương của cuộc đời. Xin cũng cho chúng con biết năng chạy đến với Bí tích Hoà giải để được Chúa chữa lành bệnh tật thiêng liêng trong tâm hồn chúng con. Amen
Hiền Lâm
NĂM C
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 9,51-62
Đức Giê-su nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không? ” Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.
Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Đức Giê-su nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi! ” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
II. SUY NIỆM
“TỪ BỎ QUYỀN LỰC”
Một chút ghi nhận về lịch sử, thánh sử Luca giúp chúng ta nhớ lại mối thâm thù truyền kiếp giữa người Samari và người Do-thái. Kể từ thời dân Samari đi lưu đày và dân cư nhiều nơi đến ở tạo thành một dân đa tạp thờ đủ thứ ngẫu tượng, người Do-thái đã tuyệt thông với dân Samari và coi đó là miền đất ô uế và những con người ô uế. Samari lại nằm giữa hai miền Galilê và Giuđê, nên khi người Galilê về Giêrusalem (Giuđê) dự lễ phải đi qua Samari, dân Samari đóng cửa không tiếp và có lẽ họ còn gây khó dễ cho những ai đi ngang qua miền đất của họ.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kể thầy trò Chúa Giê-su đi từ Galilê về Giêrusalem (để hoàn tất công trình cứu độ), khi đi qua miền đất Samari, các ngài đã không được đón tiếp, nên hai vị tông đồ Giacôbê và Gio-an (mệnh danh là con của sấm sét) đã nổi nóng đòi Thầy hô biến cho lửa từ trời xuống thiêu huỷ dân Samari như lửa đã từng thiêu đốt làng Sôđôm và Gômôra xưa.
Câu chuyện trên để lại cho chúng ta hai điều để suy niệm:
1. Con đường cứu độ không phải là dùng bạo lực.
Nhớ lại trong một khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VIII đến X, Hồi Giáo bành trướng một cách nhanh chóng, phần lớn do họ “truyền giáo” bằng bạo lực, họ đánh thắng ở đâu thì dùng khẩu hiệu: “Theo đạo Hồi hay là chết”. Người ta bất đắc dĩ phải theo, theo vì bắt buộc và áp lực, không có tự do và cũng đồng nghĩa không có niềm tin và lòng yêu mến.
Khi chưa được thấu hiểu về mầu nhiệm cứu độ, thì Giacôbê và Gio-an cũng như bao nhiêu người Do-thái lúc bấy giờ vẫn mang trong mình tư tưởng có một Đấng Cứu Thế theo kiểu con người, dùng vũ lực để chinh phạt và dùng sức mạnh từ trời để huỷ diệt kẻ ‘vô đạo’. Họ muốn Chúa xô xuống biển Pharao cùng binh tướng chứ không phải vớt lên để giúp hoán cải, muốn xô sập thành Giêricô để tàn sát chứ không phải giúp thay đổi đời sống, muốn xuống khỏi thập giá chứ không phải bị treo lên… Trong khi Chúa Giê-su đang quyết tâm lên Giêrusalem để cứu độ thì họ lại có tư tưởng lên để huỷ diệt và lập vương quốc mới.
Nếu Thiên Chúa cứu độ con người mà dùng tới vũ lực thì hỏi còn ai có thể xứng đáng để được cứu độ? Nếu Thiên Chúa cứu độ mà không vì Yêu Thương thì không cần phải Nhập Thể và Tử Nạn? Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa ban cho con người tự do để lựa chọn và Người tôn trọng tự do đó.
Các môn đệ ngăn cản Chúa Giê-su lên Giêrusalem chịu chết, muốn Chúa Giê-su khiến lửa xuống đốt kẻ ngỗ nghịch, Pharisiêu thách thức Chúa Giê-su xuống khỏi thập giá mới tin… nhưng Chúa Giê-su thực hiện ý Chúa Cha là đến để cứu chứ không phải để diệt. Con đường chết đi để cứu độ mới là con đường của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ít nhiều người Công giáo chúng ta ngày hôm nay vẫn còn tư tưởng muốn một Thiên Chúa ra tay đánh phạt kẻ ác chứ không phải nhẫn nại chờ đợi họ hoán cải, muốn Đức Mẹ phạt kẻ phá tượng hơn là nhẫn nhục hi sinh cầu nguyện cho họ. Người ta cảm phục và hoán cải nhờ tinh thần hi sinh và lòng yêu thương của chúng ta, chứ không phải bất đắc gì mà tin chúng ta. Máu các thánh tử đạo làm phát sinh các tín hữu, chứ không phải tài phép của các ngài.
2. Lòng bao dung.
Tại Anbani, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thẳng thắn lặp lại lập trường của Giáo hội là không bao giờ dùng chiến tranh để tạo nên hoà bình, không nhân danh tôn giáo để gây chiến với nhau.
Chúa Giê-su hôm nay phải quở trách hai tông đồ đừng vội nóng giận: những người Samari từ chối không đón tiếp Chúa Giê-su trong dịp này đâu đáng trách hơn những kẻ đóng cửa không tiếp một người Samari vì người này là kẻ đối nghịch.
Với cái nhìn của các Tin Mừng, xem ra mỗi lần Chúa Giê-su gặp mặt người Samari (bờ giếng Giacóp) hay khi Người nói đến người Samari (dụ ngôn người Samari nhân hậu)… là Chúa dạy chúng ta có một cái nhìn mới về những kẻ không cùng một niềm tin như chúng ta. Những người không cùng tôn giáo thường hay gây hấn với nhau, nhiều khi có thái độ rất tàn bạo, đặc biệt nhất là những người tự xưng mình được Thiên Chúa duy nhất mặc khải cho, và người của Cựu Ước xưa đã như vậy rồi.
Chúa Giê-su không ngả theo thứ cuồng tín ấy, thứ cuồng tín được biện minh từ câu truyện của ngôn sứ Êlia dùng lửa từ trời tiêu diệt quân lính vua Akhátgia (x. 2V 1,9-10). Chúa dạy ta đừng lẫn lộn chính nghĩa của Thiên Chúa với chính nghĩa của chúng ta, hay với những lợi ích của tập thể tôn giáo của chúng ta… Chúa muốn mọi người truyền giáo bằng sự tôn tôn trọng tín ngưỡng của nhau chứ không phải bài trừ nhau. Thiên Chúa có những cách thế để cứu độ trong một Ơn Cứu Độ duy nhất bởi Đức Ki-tô, điều quan trọng là chúng ta nỗ lực hết mình trong việc loan báo Tin Mừng tình thương chứ không phải loại trừ. Tân Ước hoàn thành Cựu Ước chứ không loại bỏ Cựu Ước, truyền giáo là giúp hoàn thiện một niềm tin đầy đủ về Thiên Chúa…
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đến trần gian để cứu độ chứ không phải phá huỷ, đến để dẫn tù tội nhân trở về chứ không phải để họ hư đi đời đời. Xin cho chúng con cũng biết nên giống Chúa, là đem ơn cứu độ đến cho lương dân không bằng uy thế quyền lực, nhưng bằng sự nhịn nhục hy sinh, bao dung tôn trọng tự do của mọi người. Amen
Hiền Lâm
Discussion about this post