Chương III.
CHÚ
GIẢI
THÁNH
KINH.
1. Định nghĩa.
Chú giải Thánh Kinh là tìm hiểu ý nghĩa để rồi áp dụng vào cuộc sống. Đây là việc thường ngày của những ai muốn đọc Lời Chúa. Việc chú giải có nhiều trình độ khác nhau:
– Chú giải một cách khoa học như các nhà chuyên môn về Thánh Kinh.
– Khám phá những ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc như các Giáo Phụ.
– Rút ra những bài học đơn sơ cho cuộc sống thường ngày.
Riêng khoa chú giải Thánh Kinh Công Giáo là khoa nhằm giải thích và chuyển đạt Lời Chúa cách trung thành và trọn vẹn, đặt dưới quyền giáo huấn của Giáo Hội.
Trong Cựu Ước có phong trào Midrash chuyên việc chú giải Cựu Ước; trong Tân Ước, Chúa Giêsu và các Tông Đồ trưng dẫn Cựu Ước và đã đem áp dụng vào thực tế. Đến thời các giáo phụ có hai trường phái với hai đường hướng rõ rệt: trường phái Alexandria với thánh Clément d’Alexandria và Origène thiên về nghĩa bóng, còn trường phái Antiochia thiên về nghĩa của từ. Hai trường phái này ảnh hưởng rất lớn trên các giáo phụ, như thánh Augustino theo lối chú giải của trường phái Alexandria, còn thánh Hieronymo lại thiên về trường phái Antiochia.
Sở dĩ ngày nay chúng ta đón nhận Thánh Kinh là vì chúng ta dựa trên quan điểm của Giáo Hội. Ngay từ đầu, Giáo Hội có lòng tin tưởng và quý mến đặc biệt đối với Thánh Kinh. Trước hết, các Tông Đồ kêu mời mọi Kitô hữu hãy đến kín múc từ Thánh Kinh những chân lý và sức sống. Thánh Phaolô viết cho Timôthê: “Từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2Tm 3, 15-16). Thánh Phêrô cũng đồng một xác tín: ““Chúng tôi tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em. Nhất là anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa” (2Pr 1, 19-21).
Công đồng Vaticano II, quyền tối cao trong Giáo Hội hôm nay, đã tuyên bố: “Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như Thân Thể Chúa… Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Giáo Hội xem như Qui Luật Tối Cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh hứng và được ghi chép một lần cho muôn đời” (DV 21). Lòng tin tưởng của Giáo Hội nơi Thánh Kinh không ngoài thánh ý của Chúa Kitô. Người đã từng quả quyết: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Quả thật, Chúa Kitô từng trích dẫn Cựu Ước để dạy dỗ và phi bác những ý kiến sai lạc của cấp lãnh đạo đương thời.
Khoa chú giải cần xem xét: đâu là mối quan hệ giữa một bên là các vấn đề chú giải có tính lịch sử và phê bình đối với các sách khác nhau, và bên kia là ý nghĩa của Thánh Kinh Do Thái đối với đức tin thời hiện đại? Đây không hề là một câu hỏi dễ dàng, vì chỉ cần nghĩ thêm một chút, chúng ta có thể nhận ra rằng việc nghiên cứu bản văn có thể không dính líu gì đến một thái độ dấn thân hay một định hướng đặc biệt nào về tôn giáo cả. Tuy nhiên, từ một quan điểm đức tin, ta sẽ thấy chính những phương pháp này có thể hữu ích cho việc xây dựng thần học hiện đại. Khả năng giải quyết những câu hỏi gay go được nêu lên bởi khoa phân tích phê bình là một dấu cho thấy một niềm tin trưởng thành vào Thiên Chúa, ngay cả dù nó có nghĩa rằng mình phải sống với những câu hỏi còn bỏ ngỏ hay những vấn đề phức tạp. Chẳng hạn, không nhất thiết phải tin vào một con người lịch sử có tên là Abraham để có được một đức tin sâu xa và vững vàng rằng Thiên Chúa không ngừng truyền đạt cho chúng ta qua các câu chuyện về Abraham. Đó là lý do tại sao việc nghiên cứu bản văn vẫn là việc rất quan trọng.
Một thần học đích thực Kitô giáo không thể được xây dựng tách rời khỏi việc lắng nghe kỹ lưỡng những bản văn này. Thánh Kinh Do Thái vẫn là nguồn chủ yếu cho đức tin của con người hiện đại, và các Kitô hữu hiện đại có thể bắt đầu xây dựng thần học của riêng mình bằng cách nghiêm túc tham chiếu đến vị Thiên Chúa đã giải phóng các nô lệ, lật đổ các vua chúa, ngỏ lời qua các ngôn sứ, và hành động trong lịch sử.
Chú giải Thánh Kinh nghiên cứu dựa theo ba lãnh vực:
– Khảo sát bản văn.
– Tìm hiểu ý nghĩa của bản văn.
– Những phương tiện giúp hiểu Thánh Kinh.
2. Khảo sát bản văn.
Khảo sát bản văn là xác định đâu là bản văn chính thức. Lý do của công việc này là vì hầu hết các thủ bản nguyên thuỷ đã mất và chỉ còn các sao lục, mà các sao lục thì được chép bằng tay nên không thể tránh khỏi những thiếu sót sai lầm, như chép sót, bỏ bớt, chép lặp, hoặc khó hiểu thì tự ý sửa lại hay bổ sung thêm hoặc thêm phần giải thích vào. Chính vì vậy mà nhiệm vụ đầu tiên của các nhà chú giải là phải làm sao để thiết lập lại một bản văn gần giống với bản nguyên thuỷ nhất. Đây là một công việc rất khó khăn, vì có quá nhiều bản sao lục, chẳng hạn chỉ riêng Tân Ước có tới khoảng 5 ngàn bản Hi Lạp, 8 ngàn bản La-tinh và khoảng 1 ngàn bản bằng các ngôn ngữ khác. Các nhà chú giải đã xác lập bản văn gần giống thủ bản nhất theo cách sau:
a, Tìm số nhiều các bản giống nhau nhất (có khác biệt ít nhất giữa các bản văn với nhau trong số các bản văn).
b, Gặp chỗ khác biệt thì so sánh:
– So sánh tất cả các bản với nhau.
– So sánh với Thánh Truyền.
– So sánh với những tài liệu các Giáo Phụ.
– Dùng những nguyên tắc phê bình văn chương.
3. Các hình thức văn chương.
Các tác giả Thánh Kinh đã chọn cho mình những hình thức văn chương riêng để diễn đạt Lời Thiên Chúa. Dưới đây là một số hình thức gặp thấy trong Thánh Kinh:
a, Dụ ngôn.
Dụ ngôn (Parable) là một câu chuyện giả tạo nhưng có thể xảy ra trong thực tế.
Người ta dùng dụ ngôn để chuyển đạt ý niệm về một thực tại cao siêu xuyên qua việc so sánh với một thực tại thường nhật.
Ví dụ: Đức Giêsu nói: “Nước Trời giống như một kho báu chôn trong thửa ruộng…”
Câu này gồm 3 yếu tố:
1. Hình ảnh quen thuộc thường nhật: Kho tàng chôn trong thửa ruộng.
2. Thực tại siêu hình: Nước Trời.
3. So sánh giữa hai thực tại trên với nhau.
Nhờ sự so sánh này mà người ta có ý niệm về thực tại siêu nhiên chưa thấy được.
Tuy nhiên, khi giải nghĩa dụ ngôn không nên quá chú tâm đến từng chi tiết tỷ mỷ và xem các chi tiết đều có ý nghĩa, nhưng chỉ cần nhìn vào những điều dụ ngôn muốn ám chỉ là đủ.
b, Ngụ ngôn.
Ngụ ngôn (Fable) là câu chuyện giả tạo không thể xảy ra trong thực tế, vì gán cho các sinh vật, thực vật, sông nước… những đặc điểm của con người, nhằm diễn tả một sự việc của con người mà tác giả kể ngụ ngôn nhắm tới. Ngụ ngôn chứa đựng những bài học luân lý được diễn tả qua các chi tiết của câu chuyện.
Thánh Kinh có sử dụng hình thức văn chương này, nhưng không nhiều.
Ví dụ: “…Bụi gai trả lời cây cối: “Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng…” (Tl 9,8-15).
Xem thêm 2V 14, 9-10.
Tân Ước không sử dụng hình thức văn chương ngụ ngôn.
c, Ám tỷ (ám chỉ).
Phép ám tỷ (Metaphor) là một kiểu nói bóng bảy, dùng một từ hay một câu nếu hiểu theo nghĩa đen thì ám chỉ điều này, nhưng qua đó lại ám chỉ về điều khác, nhờ có sự tương đồng nào đó giữa hai sự vật.
Ví dụ ví Chúa Giêsu là Chiên Con (hiền lành, hy tế), Phêrô là Đá (vững chắc), Hêrôđê là Con Cáo (bù nhìn, lén lút trong đêm tối)…
Đặc điểm của phép ám tỷ là nói lên một thực tại vừa không thực lại vừa thực. Ví dụ: “Thầy là cây nho, anh em là cành nho” (Ga 15,5). Không thực là Chúa Giêsu và các môn đệ không phải là cây nho cành nho thật, nhưng điều thực là Chúa Giêsu là nguồn sự sống thần linh cho những ai kết hợp với Người.
d, Ẩn dụ.
Ẩn dụ (Allegory) là câu chuyện không có thực, được dựng lên với mục đích diễn tả một chân lý nào đó cách thi vị và gần gũi. Chẳng hạn truyện Nguyên Tổ ăn trái cấm “giữa vườn” và bị phạt nặng. Truyện này nhằm mục đích nói lên ngay từ đầu con người đã vi phạm lệnh Chúa và lãnh lấy hậu quả của sự bất tuân, chứ không phải có chuyện chỉ ăn một trái cây mà bị phạt nặng đến thế.
e, Cường điệu (ngoa ngữ).
Cường điệu (Hyberbole) là kiểu nói phóng đại quá với sự thật nhằm muốn nhấn mạnh điều muốn nói. Chẳng hạn khi nói: Đánh chết nó đi, có nghĩa là không phải đánh chết mà là ngụ ý đánh cho thật đau.
Ví dụ khi nói về tầm mức lan rộng của giáo lý Đức Giêsu, Gioan viết: “Còn nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế gian cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (x. Ga 21,25).
f, Mỹ từ.
Mỹ từ (Euchanism) là kiểu nói dùng các từ thanh lịch để nói tránh một sự việc tế nhị hoặc khó nói, hay không muốn nói thẳng ra.
Ví dụ: thay vì nói “chết” người ta dùng từ “an nghỉ” hoặc “ngủ”…
4. Ý nghĩa Thánh Kinh.
Thánh Kinh có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau, nên cần tìm hiểu các loại nghĩa được sử dụng trong Thánh Kinh mới có thể hiểu được tư tưởng chính của tác giả muốn nhắm tới.
Đi tìm ý nghĩa của Kinh Thánh là một tiến trình qua nhiều nguyên tắc: Tìm ý nghĩa thực của từ ngữ mà tác giả nhắm tới, đặt chúng vào trong sự liên tục của bản văn và tìm chủ đích của cả tác phẩm muốn nói với mục đích gì?
a, Các nguyên tắc.
Nguyên tắc 1: Tìm ý nghĩa thực mà tác giả nhắm tới. ví dụ: Khi nói “Nhớ chết đi được” có nghĩa là rất nhớ.
Nguyên tắc 2: Đặt vào mạch văn nếu không sẽ làm cho nội dung bị méo mó hoặc sai lệch. Ví dụ: “Hãy sám hối”. Nếu tách câu này ra thì giáo lý Chúa Giêsu cũng chỉ dừng lại ở mức Cựu Ước như các ngôn sứ, Gioan Tẩy Giả và ngay cả Đức Phật cũng nói thế. Nhưng đặt vào mạch văn: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” thì mới nói lên được nội dung đầy đủ của giáo lý Chúa Giêsu.
Nguyên tắc 3: Xét chủ đích của tác giả trong mỗi tác phẩm. Chẳng hạn mỗi Tin Mừng mang một sắc thái riêng: Matthêu viết cho Kitô hữu gốc Gio Thái thì cố gắng làm cho họ hiểu những gì tiên báo trong Cựu ước đã ứng nghiệm…
b, Nghĩa của từ ngữ (Literal sense).
Mỗi từ ngữ đều ám chỉ một thực tại nào đó, nghĩa là mỗi từ ngữ đều mang ý nghĩa và có thể hiểu theo hai cách:
– Nghĩa đen: Là điều mà từ ấy nói đến trực tiếp. Ví dụ khi nói “con cáo” tức là người ta nghĩ ngay đến loài động vật rình rập vào ban đêm và được người ta gọi là con cáo…
– Nghĩa bóng: Là ý nghĩa của từ ngữ nói về sự vật này nhưng lại ám chỉ một sự vật khác cách bóng bảy. Như khi Đức Giêsu nói: “Hãy đi nói với con cáo ấy thế này…”. Con cáo được nói ở đây ám chỉ vua Hêrôđê.
c, Nghĩa biểu tượng (Typical sense).
Là ý nghĩa rút ra từ một thực tại trong Cựu Ước, rồi áp dụng vào Tân Ước. Vì Tân Ước thực hiện và hoàn tất những hình bóng Cựu Ước, nên chỉ những thực tại được đề cập trong Tân Ước mới có mối tương quan ý nghĩa biểu tượng mà thôi.
Hai thực tại trong nghĩa biểu tượng, có thể là nhân vật, sự vật, biến cố:
Nhân vật: Melkiseđe là hình bóng Chúa Giêsu linh mục thượng phẩm…
Sự vật: Manna là hình bóng Thánh Thể…
Biến cố (hành động): Vượt qua Biển Đỏ là hình bóng Bí Tích Rửa Tội…
d, Nghĩa hoàn hảo (Fuller sense)
Nghĩa hoàn hảo hay đầy đủ là ý nghĩa rút ra từ một từ ngữ được ám chỉ về thực tại này, nhưng lại được áp dụng cho một thực tại khác.
Ví dụ: “Các ngươi không được làm gãy một cái xương nào của nó”(Xh 12,46) Câu này được dùng cho con chiên vượt qua, nhưng lại áp dụng cho thực tại là Đức Giêsu không bị đánh giập ống chân (x. Ga 19,36).
Nghĩa hoàn hảo khác với nghĩa biểu tượng ở chỗ, nghĩa biểu tương là rút từ thực tại này áp dụng vào thực tại khác, trong khi nghĩa hoàn hảo là cùng một từ ngữ được áp dụng cho trường hợp này để áp dụng cho trường hợp khác.
Đôi khi trong một vài trường hợp một câu vừa có nghĩa biểu tượng, vừa có nghĩa hoàn hảo. Ví dụ: “Như Môisê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy”. Nghĩa biểu tượng là hình ảnh con rắn đồng với Đức Giêsu, nhưng sự “treo lên” (nghĩa hoàn hảo) mới diễn tả hết sự Cứu Độ của Đức Giêsu.
e, Nghĩa phóng tác (Accommodated).
Là ý nghĩa được căn cứ vào nghĩa đen của một chữ, một câu hay một đoạn Kinh Thánh, rồi suy rộng ra và áp dụng vào nhiều lãnh vực khác nhau. Nghĩa này thường được các nhà giảng thuyết, nhất là các nhà đạo đức sử dụng nhiều. Tuy Giáo Hội không cấm, nhưng không thật sự khuyến khích.
Nghĩa phóng tác tự nó đóng góp quan trọng trong việc suy tư, nhưng dễ bị méo mó lung lạc hoặc vượt quá thực tế sự thật khi không chú ý bám chặt vào chủ đề chính mà phóng đại ý phụ để tạo sức hấp dẫn… rồi tưởng tượng và bịa đặt thêm. Ví dụ trong “Ngắm Thương Khó” người ta tưởng tượng ra chuyện Đức Giêsu bị bắt trên đường dẫn đến nhà Kha-na: “chúng đi trên cầu, thòng dây bắt Đức Giêsu lội dưới sông lạnh lẽo giá rét…”. Trong khi quãng đường này không hề có cầu cống sông ngòi gì cả.
6. Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
Vì mặc khải xảy ra trong lịch sử, cho nên muốn hiểu Thánh Kinh, chúng ta cần “tìm ý nghĩa mà … các thánh sử muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong thời đại và hoàn cảnh văn hóa của họ, qua những lối văn được dùng trong thời đó” (Dei Verbum 11). Để giúp đạt được mục đích này, Giáo Hội khuyến khích chúng ta dùng phương pháp Phân Tích (Phê Bình) Lịch Sử, vì phương pháp này nghiên cứu các văn bản Thánh Kinh như các tài liệu lịch sử và tìm cách hiểu bản văn trong phạm vi lịch sử. Tuy nhiên phương pháp này không phải là phương pháp duy nhất, cần phải được sử dụng một cách cẩn trọng theo truyền thống Đức Tin của Giáo Hội.
a, Đại cương về phương pháp phân tích lịch sử
Trong phương pháp Phân Tích Lịch Sử, ý nghĩa của bản văn được tìm thấy trong cái thế giới lịch sử và văn hóa mà trong đó bản văn được phát sinh, các nhân vật và biến cố trong lịch sử mà từ đó bản văn chính được tạo ra, cũng như các truyền thống được truyền khẩu hoặc được viết thành văn có trước khi bản văn cuối cùng được thành hình.
Phương pháp này tìm cách xác định ý nghĩa nguyên thủy của bản văn qua việc tái tạo: (1) Khung cảnh nguyên thủy. (2) Môi trường lịch sử và văn hóa đầu tiên mà trong đó bản văn được sáng tác. (3) Những nguồn tài liệu, hoặc truyền khẩu hoặc được ghi chép, dùng để viết bản văn. (4) Các hoàn cảnh lịch sử và văn hóa dẫn đến việc viết bản văn. (5) Các niềm tin về thần học cũng như văn hóa của các tác giả và độc giả đầu tiên của bản văn. (6) Chủ ý của các tác giả đầu tiên.
Thực ra, có nhiều cách thế khác nhau trong việc nghiên cứu Thánh Kinh theo Phân Tích Lịch sử. Phương pháp phân tích văn thể được dùng để khám phá ra các truyền thống khẩu truyền đằng sau bản văn. Phương pháp phân tích nguồn văn để tìm ra các văn bản được sát nhập vào bản văn Thánh Kinh. Phương pháp phân tích biên tập chú ý đến vai trò của soạn giả hay người viết cuối cùng là người gom góp các tài liệu hoặc truyền khẩu hoặc đã được viết xuống thành bản văn Thánh Kinh. Phương pháp phân tích văn tự chú ý đến lịch sử của việc lưu truyền bản văn sau khi bản chính đã được soạn thảo.
b, Sự cần thiết của phương pháp phân tích lịch sử
Đây là một phương pháp cần thiết để nghiên cứu Thánh Kinh vì các bản văn Thánh Kinh xuất hiện trong một hoàn cảnh lịch sử và văn hóa khác với hoàn cảnh của chúng ta. Hiến Chế Tín Lý Mặc Khải (Dei Verbum) của Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng “mặc khải xảy ra trong phạm vi lịch sử nhân loại.” Tài liệu về Giải Thích Thánh Kinh trong Giáo Hội của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh viết: “Thánh Kinh, thực ra, không tự mình xuất hiện như một mặc khải trực tiếp các chân lý vĩnh cửu, nhưng như chứng từ viết về những lần can thiệp của Thiên Chúa mà trong đó Ngài đã tự tỏ mình ra trong lịch sử nhân loại. Bằng một cách thế khác hẳn với các giáo lý của các tôn giáo khác, sứ điệp Thánh Kinh có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử. Cho nên không thể hiểu các bản văn Thánh Kinh cách đúng đắn nếu không nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử ảnh hưởng đến các bản văn này.”
Theo Giáo Hội thì Thiên Chúa đã chọn các tác giả Thánh Kinh, hoạt động trong họ và nhờ họ mà truyền đạt lời của Ngài. Ngài hoàn toàn sử dụng năng lực và khả năng của họ để họ viết như những tác giả thật sự (x. Dei Verbum 11-12). Đức Thánh Cha Piô XII viết trong Divino Afflante Spiritu rằng các tác giả được linh hứng của Thánh Kinh là dụng cụ sống động và hợp lý của Chúa Thánh Thần. Họ đem cá tính của mình vào các bản văn Thánh. Các phương pháp Phân Tích Lịch Sử có thể được dùng để hiểu rõ hơn về các tác giả nhân loại mà Thiên Chúa đã dùng để thông tri Lời Ngài.
Nhờ phương pháp Phân Tích Lịch sử chúng ta có thể hiểu chính xác hơn nghĩa văn tự của các bản văn Thánh Kinh.
c, Giới hạn của phương pháp phân tích lịch sử
Từ ngày Giáo Hội cho phép và khuyến khích dùng phương pháp Phân Tích Lịch Sử trong việc nghiên cứu Thánh Kinh. Nhiều học giả đã cố gắng dùng phương pháp này để chứng minh mọi biến cố trong Thánh Kinh. Từ đó đưa đến việc lạm dụng phương pháp này. Trước hết, phương pháp này thường có khuynh hướng nghiên cứu tiền sử của các bản văn Thánh Kinh mà không tìm hiểu ý nghĩa của toàn thể bản văn. Thứ đến, thay vì tìm hiểu ý nghĩa của lịch sử được tái tạo đằng sau bản văn như các nhà phân tích lịch sử làm, một số người cho rằng phải chú tâm nhiều hơn đến những tường thuật trong bản văn Thánh Kinh. Một số các nhà chú giải dựa vào thuyết duy lý hoặc thuyết tự nhiên để tìm những cách giải thích về các phép lạ xảy ra trong Thánh Kinh theo lịch sử. Vì không tin vào phép lạ hay quyền năng biết trước lịch sử của Chúa, nhiều người đã thay thế những câu truyện được kể trong Thánh Kinh với lịch sử được họ tái tạo dựa theo các tiêu chuẩn lịch sử hiện đại, hoặc loại bỏ những truyền thống lâu đời mà họ cho rằng không phù hợp với khoa học. Thí dụ như nhiều người cho rằng việc Đức Chúa Giêsu được sinh ra bởi Mẹ Đống Trinh là huyền thoại; Tin Mừng Thánh Luca phải đuợc viết sau năm 70 vì trong đó có những đoạn văn nói quá rõ về việc Thành bị phá hủy…. Do đó người đọc Thánh Kinh chỉ còn lại một số dữ kiện tối thiểu có thể được xác nhận cách chắc chắn trong lịch sử, mà mất đi các ý nghĩa phong phú đa dạng được tìm thấy trong chính những câu truyện được diễn tả trong Thánh Kinh.
Nghiên cứu Thánh Kinh theo phương pháp Phân Tích Lịch Sử thường không vượt qua giai đoạn tìm hiểu xem bản văn có ý nghĩa gì trong vị trí lịch sử nguyên thủy, để đi đến việc tìm hiểu xem bản văn muốn nói gì với chúng ta hôm nay. Vì thế Chú giải Thánh Kinh sẽ không trọn vẹn nếu chỉ phân tích lịch sử. Đức Thánh Cha Phaolô VI, ngày 14 tháng 3, 1974, đã kêu gọi các học giả phải giải thích Thánh Kinh theo giáo huấn Giáo Hội: “Công việc của anh em không phải chỉ giải thích các bản văn cổ để trở lại hình thái sơ khởi của một số bản văn Thánh Kinh. Nhiệm vụ chính yếu của một nhà chú giải Thánh Kinh là trình bày sứ điệp mặc khải cho Dân Thiên Chúa; phơi bày chính ý nghĩa của Lời Chúa ngay trong những Lời ấy trong mối liên hệ với con người hiện đại.”
Gần đây hơn nữa một số học giả bị lôi cuốn bởi các sách ngoài quy điển và một số truyền khẩu được tái tạo mà cho rằng chúng diễn tả sự bình đẳng của sứ điệp của Chúa Giêsu đúng hơn là sách Tân Ước, vì chúng không bị áp đặt bởi một Giáo Hội chuyên chế. Ngược lại phương thức của Công Giáo là nhấn mạnh sự liên tục và phát triển của của các truyền thống Thánh Kinh từ truyền khẩu và các bài viết về thời tiền sử, đến việc biên soạn cuối cùng và sát nhập vào quy điển, cùng việc liên tục sử dụng và giải thích Thánh Kinh trong đời sống Giáo Hội cho đến hiện nay.
Đôi khi phương pháp này mạo nhận là có tính cách khoa học khách quan cùng địa vị đặc quyền của mình. Trên thực tế, phương pháp Lịch Sử đã đưa ra những tiếp cận cùng những ước đoán khác nhau, đôi khi còn trái ngược nhau. Còn Giáo Hội tuy xác nhận sự cần thiết của việc nghiên cứu bản văn theo phương pháp Phân Tích Lịch Sử, nhưng không cho nó là phương pháo độc nhất được dùng để hiểu bản văn Thánh Kinh. Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa vừa qua đã đưa ra hai hậu quả đáng tiếc của việc lạm dụng phương pháp Phân Tích Lịch sử là: (1) “Đối với những độc giả hiện nay, Thánh Kinh trở thành một cuốn sách hoàn toàn trong quá khứ, không có khả năng nói với thời đại chúng ta”; (2) “Hậu quả thứ hai trầm trọng hơn, là sự mất dạng của việc chú giải theo Đức Tin mà ‘Dei Verbum’ vạch ra. Thay vì chú giải theo niềm tin, thì lại lọt vào đó một viêc chú giải theo thực chứng và thế tục chối bỏ cả việc Thiên Chúa có thể hiện diện và lui tới trong lịch sử nhân loại”
Chính vì những lý do trên mà chúng ta nên đọc các sách chú giải Thánh Kinh theo phương pháp Phân Tích Lịch Sử cách thận trọng, ý thức rằng phương pháp này có thể bị bóp méo bởi những thiên lệch duy lý và chủ quan. Khi giải thích Thánh Kinh, điều chắc chắn nhất là luôn luôn tuyệt đối trung thành với giáo huấn của Huấn Quyền. ĐTC Bênêđictô XVI nhắn nhủ chúng ta trước Kinh Truyền Tin ngay sau Thánh Lễ bế mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục ngày 26 tháng 10 năm 2009 rằng: “Một bài chú giải Thánh Kinh hay cần có cả phương pháp Phân Tích Lịch Sử lẫn phương pháp Thần học, bởi vì Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa trong các chữ của loài người. Điều này có nghĩa là mọi đoạn văn phải được đọc trong khi luôn để tâm đến tính duy nhất của tất cả Thánh Kinh, truyền thống sống động của Giáo Hội và ánh sáng Đức Tin. Thánh Kinh đúng là một tác phẩm văn chương, và hơn nữa, là một bộ luật của nền văn hóa phổ quát, nhưng không được cướp mất yếu tố Thiên Chúa của Thánh Kinh, mà trái lại, phải được đọc trong cùng một Chúa Thánh Thần là Đấng viết Thánh Kinh.”
7. Vai trò của Giáo Hội.
Dù thời nay có nhiều phương tiện giúp giải thích Thánh Kinh, nhưng vẫn còn rất nhiều câu và nhiều đoạn Thánh Kinh chưa rõ nghĩa, hoặc còn hàm ẩn nhiều nghĩa chưa được khai thác. Điều này là thao thức của các nhà chú giải Thánh Kinh. Tuy nhiên, quyền phán quyết cuối cùng vẫn phải luôn thuộc về Giáo Hội, vì đó là “tôn sư sống động” mà Chúa Kitô uỷ thác cho việc bảo tồn, truyền bá và giải thích Lời Chúa (x. Mt 28,18-20). Bởi vì: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,16).
Tóm lại: trong việc chú giải, cần nắm vững 7 nguyên tắc như sau:
1% Thánh Kinh được viết ra nhằm trình bày chương trình mặc khải của Thiên Chúa. Nhưng mặc khải là một thực tại duy nhất và liên tục mà chóp đỉnh là mầu nhiệm Đức Kitô. Do đó mầu nhiệm Đức Kitô là đối tượng duy nhất của Kinh Thánh. Khoa chú giải trước hết nhằm phô bày cách rõ ràng mầu nhiệm căn bản này.
2% Toàn bộ Thánh Kinh không được chép trong một lúc, nhưng theo nhịp tiến của thời gian. Vì thế, khi chú giải một bản văn Cựu Ước chẳng hạn, ta phải đối chiếu với mầu nhiệm Đức Kitô.
3% Khi tìm hiểu một đoạn văn nào của Thánh Kinh, ta phải đặt nó vào trong toàn bộ của cuốn sách.
4% Vì Thiên Chúa đã muốn dùng ngôn ngữ của nhân loại để diễn tả các mầu nhiệm, và vì ngôn từ nhân loại mang dấu vết của một nền văn minh văn hoá, một ý thức hệ, một khung cảnh xã hội… nên ta cần phải thấu hiểu ngôn ngữ mà tác giả đã dùng để chép.
5% Khi gặp một chữ khó hiểu ta cần nghiên cứu các ý nghĩa khác nhau: nghĩa bóng, nghĩa của từ, nghĩa hoàn hảo…
6% Khi gặp một kiểu nói khác lạ, ta cần tìm xem kiểu nói ấy thuộc loại thể văn nào (thi ca, lịch sử, giáo huấn, luật, ngôn sứ…).
7% Ý thức rằng, chỉ có Giáo Hội có bổn phận gìn giữ và có thẩm quyền phán quyết về việc chú giải Lời Chúa.
Discussion about this post