Dẫn nhập
Karl Jaspers (1883-1969), nhà triết lớn của Đức, người đã đặt nền móng cho phương pháp tiếp cận mới trong triết học và lịch sử triết học từ lập trường của chủ nghĩa hiện sinh. Công trình đầu tay của ông chính là cuốn “Introduction à la philosophie” (Nhập môn triết học), trong đó, Karl Jaspers không phải nhằm giúp các sinh viên bắt đầu tập tễnh bước vào khoa triết, mà là tự xác định cho chính bản than ông về chủ đích, phương pháp và đối tượng ông nhắm tới. Nghĩa là triết học đích thực phải xuất phát từ con người, lấy số phận con người làm đối tượng suy tư. Ở đây, Jaspers không quá đề cao vai trò của triết học, hạ thấp vai trò của tri thức khoa học mà chỉ muốn nhấn mạnh sự khác nhau về mặt phương pháp, đặc trưng tri thức và tính chất thế giới quan giữa chúng.
Chức năng của triết học là làm sáng tỏ trong tính chỉnh thể sự hiện diện của con người, bởi lẽ, con người không chỉ tồn tại trong thế giới mà còn là một thực thể tự do. Sự hiện hữu ở con người được ông xem là một nguồn suối phát sinh các vấn đề triết học, chúng thể hiện những trạng thái ngạc nhiên (thái độ phản tỉnh với cuộc sống hằng ngày), hoài nghi (thái độ phản tỉnh để hiểu rõ ý nghĩa của cuộc đời), những tình huống giới hạn (limit situations) và sự thông tri (sự thông cảm giữa người với người, sự tán thành lẫn nhau dựa trên tư cách người). Triết học xuất hiện phải với mục đích làm cho con người sống tốt hơn, làm cho người ta biết cười, biết khóc, biết sống và biết chết, chứ không đơn thuần giải khát sự thiếu hụt hiểu biết của con người. Vì thế, nó cần tìm cách xây dựng một phương pháp giải thích phù hợp với tất cả những gì là sự thật của đời người. Triết lí là đường dẫn con người về trọng tâm, nơi đây họ mới nhận thức được chính họ trong khi dấn thân vào cuộc đời.
Tìm hiểu triết học chính là tìm hiểu về chính con người trong vũ trụ này, và làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa.
Cuộc đời là một thực tại sống động, muôn mặt, nó thay đổi một cách hết sức linh động nơi mỗi người. Hoàn cảnh sống, tính tình, cấu tạo tâm lý, thể lý của mỗi người rất khác biệt nhau, nên không có cuộc đời nào giống cuộc đời nào cả. Vì thế, mỗi người nhìn cuộc đời một cách khác nhau, có lập trường sống khác nhau.
Suy tư về cuộc đời, tạo cho mình một quan niệm về cuộc đời, chính là làm triết lý. Do đó, triết lý quan trọng biết bao đối với cuộc sống! Cuộc đời ta hạnh phúc hay đau khổ, đầy ý nghĩa hay vô nghĩa, đầy hữu lý hay toàn là phi lý… tùy thuộc rất nhiều vào triết lý sống của ta.
Tóm lại, bắt đầu với chương trình “Triết Học Nhập Môn”, là bắt đầu khi các sinh viên biết đặt câu hỏi trước mọi vấn đề xảy đến xung quanh mình, truy tìm cho nó ý nghĩa cho con người và cuộc sống ngay giây phút hiện tại. Cũng như các bậc hiền triết đi trước đã tìm thấy những ý nghĩa nhân sinh cho từng giai đoạn và hoàn cảnh sống, mà chúng ta sẽ gặp thấy một cách khái quát trong GIÁO TRÌNH này. Quyển “Triết Học Nhập Môn” được giới thiệu tới các sinh viên như là một khởi đầu và cửa ngõ cho các sinh viên tiếp cận với triết. Cho đến khi vào các học viện, các sinh viên sẽ bớt ngỡ ngàng khi học các bộ môn triết chuyên biệt.
BÀI I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý,sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
Thật ra, chưa có một định nghĩa nào bao hàm được hết về triết học, mỗi triết gia, mỗi thời đều có những định nghĩa khác nhau, trước hết chúng ta tìm về nguyên ngữ của triết:
Nguyên ngữ:
a, Tây phương:
Philosophia (φιλοσοφία): Trong ngôn ngữ Hy lạp, chữ φιλοσοφία (philosophia, triết học) được kết hợp từ φίλος (philos, người yêu mến, bạn hữu) và σοφία (sophia, sự khôn ngoan/ hiểu biết). Tôi học triết cũng là để mặc lấy cho mình “triết tính”, tức yêu mến sự khôn ngoan. Thế nhưng, lòng yêu mến hay nỗi thao thức tìm kiếm sự khôn ngoan không có giá trị tự tại; triết học phải mở ra hay hướng đến một điều gì đấy. “Biết gì” chưa đủ, phải biết “biết để làm gì”. Sự khôn ngoan phải đi từ khối óc (TRÍ) đến đôi tay (HÀNH). Đó là quan niệm theo phương Tây, mà hình như giữa đôi bờ TRÍ – HÀNH vẫn còn một dòng sông ngăn cách.
Karl Jaspers cho rằng danh từ Philosophia hay Philosophos được lập ra để phân biệt với các quan niệm khác về các khoa học. Philosophos chỉ “người yêu tri thức”, khác hẳn với nhà bác học (savant) là người đã “sở đắc tri thức” (possédant le savoir). Thật vậy, yếu tính của triết học là truy tầm chân lý (la recherche de la vérité) chứ không phải sở đắc chân lý (la possession de la vérité). Học triết lý chính là lên đường đi tìm, và là một cuộc tìm kiếm triền miên.
b, Đông phương.
哲: chữ “triết” 哲 (gọi tắt cho “triết học”) bao gồm chữ “chiết” 折 (bộ thủ 手 [tay], bộ cân 斤 [cái rìu]) và bộ khẩu 口 [miệng]. Theo đó, học/hành triết là “cầm rìu chặt chẻ” vấn đề để thấy tận bên trong; bên cạnh đó còn phải truyền thông ý tưởng cho người khác bằng ngôn ngữ.
Xem ra chữ 哲 (triết) của Đông phương có thể soi sáng và gia tăng ý nghĩa cho chữ φιλοσοφία của người Hy-lạp ở chiều sâu và chiều rộng. Vâng, biết thì phải biết sâu; biết thì có nghĩa vụ thông truyền. Sở dĩ muốn hiểu biết sâu hơn và truyền thông rộng hơn là vì có lòng yêu mến. Bởi lẽ, “vô tri bất mộ,” và “tình yêu cốt ở việc làm hơn là lời nói; cốt ở sự thông truyền giữa hai bên – người yêu trao tặng và thông truyền cho người mình yêu những gì mình có”. Đó mới là yêu mến thực thụ, tức cho đi, chứ không chỉ ưa chuộng, mến mộ hay ham muốn kiếm tìm và chiếm hữu. Ở giữa khối óc (TRÍ) và đôi tay (HÀNH) là nhịp cầu con tim (TÂM) đang chờ đưa triết nhân sang sông.
Thế nhưng, theo Nguyễn Duy Cần – trong cuốn “Nhập môn triết học Đông phương”[1]– cho rằng, theo quan điểm Đông phương, nên dùng chữ “đạo” có lẽ sẽ chỉnh hơn.
Đạo (道): Theo như lối chiết tự của Trung Hoa thì chữ Đạo (道) bao gồm bộ Xước (辵) và chữ Thủ (首). Chữ Thủ (首) đầu tiên là một nét chấm bên trái và một nét phẩy bên phải, sau đó là chữ Nhất (一) rồi kế đó là chữ Tự (自). Nét chấm đầu tiên bên trái tượng trưng cho nhất Dương và nét phẩy bên phải tượng trưng cho nhất Âm. Có Âm, Dương rồi thì đi đến chữ Nhất . Như vậy có nghĩa là phải hợp nhất Âm, Dương với nhau chung lại thành một. Chữ Tự (自) có nghĩa là tự nhiên hay tự mình, chính bản thân mình chứ không ai làm cho mình được. Tất cả gộp lại thành chữ Thủ, có nghĩa là đầu tiên cũng có nghĩa là việc làm đầu tiên là tự bản thân mình hợp nhất Âm Dương. Kế đến là chữ Xước (辵) có nghĩa là lưu hành vận chuyển. Như vậy sự cấu tạo của chữ Đạo (道) mang ý nghĩa là chính tự bản thân mình đem âm dương hợp nhất để rồi lưu chuyển và biến hoá. Hiểu xa hơn là phải chính bản thân mình nắm bắt được sự động (Dương), tĩnh (Âm) ở bên ngoài mà hoà hợp nó để có thể chuyển hoá nó một cách hài hoà theo quy luật của tự nhiên. Đạo là một con đường đi, một hướng đi hay nói cách khác nó là một phương pháp tìm hiểu những quy luật sẵn có của vũ trụ (Âm, Dương, Động, Tĩnh, Đêm, Ngày, Nóng, Lạnh…) tác động lên con người để rồi vận dụng những quy luật đó và chuyển hoá nó một cách hữu hiệu hơn nhằm đem lại sự thăng hoa, tinh tấn trong cuộc sống của chính bản thân chúng ta. Đạo còn là quy luật của thiên nhiên của đại vũ trụ bao trùm khắp mọi nơi.
Tóm kết một số định nghĩa tương đối về triết:
– Triết nghiên cứu những hiện tượng xảy ra trong tâm hồn, nghiên cứu những phương pháp dẫn đến sự thật (sự thật của khoa học nhân văn, tự nhiên), nghiên cứu lối sống nào phù hợp với lý tưởng làm người, nghiên cứu những gì vượt tầm giác quan, những nguyên nhân cao siêu nhất, những cứu cánh tận cùng…
– Triết là suy niệm cuộc đời, về ý nghĩa cuộc đời, về than phận làm người, về đau khổ, về cái chết, về ý nghĩa lịch sử của nhân loại.
– Triết là đi tìm cái gì cơ bản nhất, sâu xa nhất của mỗi sinh hoạt con người: tôn giáo, chính trị, kinh tế, khoa học, gia đình, giáo dục.
– Triết là tìm thẩm định giá trị sự thật siêu việt của mọi sinh hoạt con người.
– Triết là tìm phân biệt và hòa hợp trong hòa điệu, trong tổng hợp hài hòa những hiểu biết khác nhau, những giá trị khác nhau, những sự vật khác nhau, những hữu thể khác nhau, tìm thống nhất cái biết, cái cảm, cái làm, cái sống, tri và hành…
– Đặc biệt, triết là tìm hiểu sâu sắc hơn, chính xác hơn chính mình và cũng để sống sâu sắc hơn than phận chính mình.
BÀI II. ĐỐI TƯỢNG TRIẾT
Từ lâu, Aristote (cổ đại) và các triết gia Trung cổ đã định nghĩa: “Scientia de ente in quantum ens (triết học là khoa học về hữu thể xét như là hữu thể). Hữu thể là “CÓ”, là bất cứ cái gì có, bao gồm cả tạo hóa lẫn tạo vật. Vì vậy, đối tượng của triết học rất phổ quát. Nói tắt, đối tượng của triết học là thế giới vật chất và con người, được nó nghiên cứu dưới dạng các qui luật chung và phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử. Nhưng triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, như vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về bản chất và tính thống nhất thế giới của vật chất, về khả năng nhận thức của con người. Lại nữa, khả năng giới hạn của con người, nên các triết gia từng thời có thể tập chú vào một hữu thể nào đó mà thôi:
Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm sau này coi triết học là khoa học của các khoa học .Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đã đạt được nhiều thành tựu và nó ảnh hưởng to lớn đối vơi sự lịch sử phát triển của các khoa học.
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là khoa học của mọi khoa học với nghĩa triết học bao gồm mọi tri thức của con người về thế giới, đặc biệt là giới tự nhiên, do đó còn gọi là triết học tự nhiên. Thời kỳ triết học Hy lạp cổ đại, tìm hiểu năm nhánh của triết học là siêu hình học, lôgic, nhận thức luận, luân lý học, và mỹ học. Tuy nhiên đối tượng của triết học còn mở rộng đến chính trị học, vật lý học, địa chất học, sinh học, khí tượng học, và thiên văn học. Bắt đầu từ Socrates, các nhà triết học Hy Lạp đã phát triển triết học phân tích, tức là, phân chia vật thể thành các thành phần nhỏ hơn để nghiên cứu. Triết học cổ Hy Lạp thường được coi là cơ sở của triết học phương Tây.
Ở Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại, triết học gằn liền với những vấn đề chính trị, đạo đức, tôn giáo và thường biểu hiện dưới dạng học thuyết chính trị – xã hội hoặc tôn giáo.
Triết học Ấn Độ có nhiều điểm tương tự như triết học phương Tây. Trước thế kỷ thứ XIX, trong ngôn ngữ của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc Trung Quốc, không có từ “triết học” mặc dù nền triết học của các nước này đã phát triển từ lâu rồi. Đặc biệt là các nhà triết học Trung Hoa sử dụng các phạm trù hoàn toàn khác người Hy Lạp. Các định nghĩa không dựa trên các đặc điểm chung mà thường có tính ẩn dụ và để chỉ một vài đối tượng cùng một lúc. Biên giới giữa các phạm trù không rõ ràng như trong triết học phương Tây!
Thời phong kiến ở Tây Âu, do sự thống trị của thần học Ki-tô giáo trong lĩnh vực tinh thần, nên triết học chỉ là tôi tớ cho thần học và mang tính kinh viện. Thời trung cổ, ở Tây âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì triết học tự nhiên bị thay thế bởi triết học kinh viện, phụ thuộc vào thần học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho Kinh thánh.
Thời Phục hưng và Cận đại ở Tây Âu, triết học không chỉ đề cập tới những vấn đề tự nhiên, mà còn đề cập tới những vấn đề con người và xã hội. Tính nhân đạo tư sản thể hiện rõ trong các trường phái triết học ở Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Italia v.v. Triết học cổ điển Đức đã đề cập tới mọi vấn đề của thế giới (tự nhiên, xã hội, tư duy). Hégel là nhà triết học cuối cùng trong lịch sử triết học có tham vọng coi triết học là khoa học của mọi khoa học.
Từ thời Phục hưng đến Cận đại, các ngành khoa học tách khỏi triết học thành các khoa học độc lập. Các quy luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội, tư duy) trở thành đối tượng nghiên cứu của triết học. Triết học còn khác với các ngành khoa học cụ thể ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận của nó. Chính vì vậy, có thể nói triết học là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận.
Triết học có vai trò hết sức to lớn trong đời sống xã hội, nó cung cấp cho chúng ta hệ thống quan điểm, tư tưởng về thế giới (thế giới quan); góp phần giải thích thế giới trong dạng một chỉnh thể gồm nhiều yếu tố tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau tạo cho chúng ta có nhận thức chung nhất về thế giới. Không những thế, triết học còn góp phần hình thành và phát triển nhân sinh quan của con người (quan điểm, tư tưởng về con người, cuộc sống và hành vi ứng xử của con người trong cuộc sống)
BÀI III. CÁC VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
- Các vấn đề cơ bản.
Triết học đưa ra các câu hỏi về bản thể, nhận thức, chân lý, đạo đức, thẩm mỹ. Các vấn đề cơ bản của triết học là:
– Vấn đề về bản thể: Vật Chất và ý thức là gì? Mối quan hệ giữa chúng như thế nào?
– Vấn đề về chân lý: làm thế nào để xác định được một luận cứ đi từ tiền đề đến kết luận có hiệu lực hay không? Làm thế nào để biết được một phát biểu là đúng sai? Ta có thể trả lời những loại câu hỏi nào?
– Vấn đề về nhận thức: quá trình nhận thức diễn ra thế nào? Chúng ta có thể nhận thức chính xác thế giới khách quan hay không? Thực tại là gì? Chúng ta nhận thức thực tại như thế nào, có nhận thức toàn bộ thực tại hay không?
– Vấn đề về đạo đức: thế nào là “tốt”, thế nào là “xấu” (hoặc thế nào là “giá trị”, thế nào là “phi giá trị”)? Sự khác biệt giữa tốt và xấu? Hành động như thế nào là đúng? Các giá trị có tính chất tuyệt đối hay tương đối? Thế nào là các quy tắc tự nhiên? Hạnh phúc là gì?
– Vấn đề về thẩm mỹ: Đẹp, xấu là gì? Nghệ thuật là gì?
- Giải quyết các vấn đề.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa tư duy với tồn tại, giữa ý thức với vật chất, giữa tinh thần với tự nhiên thì cái nào có trước cái nào có sau? và cái nào có vai trò quy định đối với cái nào? Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở lý luận để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học, là tiêu chuẩn để phân biệt lập trường tư tưởng, quan điểm của các nhà triết học.
Trong lịch sử triết học, có cách khác nhau, thậm chí đối lập nhau khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Khi trả lời những câu hỏi thuộc mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản; những người cho rằng tồn tại, vật chất, giới tự nhiên có trước và có vai trò quyết định đối với tư duy, ý thức, tinh thần, hợp thành trường phái duy vật (chủ nghĩa duy vật); ngược lại, những người cho rằng tư duy, ý thức, tinh thần là cái có trước, có vai trò quyết định đối với tồn tại, vật chất, giới tự nhiê, hợp thành trường phái duy tâm (chủ nghĩa duy tâm).
Chủ nghĩa duy vật có nhiều hình thức, song có ba hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy vật thời cổ đại mang tính ngây thơ, chất phác; chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII mang tính máy móc, siêu hình; chủ nghĩa duy vật biện chứng – mang tính khách quan khoa học hơn.
Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách quan là trường phái triết học cho rằng, thế giới do thực thể đầu tiên thuộc ý thức, tinh thần khách quan tạo ra, thế giới do đó, chịu sự quy định của thực thể ý thức, tinh thần đó như “ý niệm” của Platon, hay “ý niệm tuyệt đối” của Hégel. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan là trường phái triết học cho rằng, thế giới tồn tại phụ thuộc vào thực thể ý thức, tinh thần chủ quan của con người.
Khi giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học, đa số các nhà triết học đều thừa nhận khả năng nhận thức của con người hợp thành trường phái khả tri luận (có thể biết). Tuy nhiên các nhà triết học thuộc trường phái này cũng có sự khác nhau khi bàn tới các vấn đề như mục đích của nhận thức, con đường nhận thức chân lý, vai trò của các giai đoạn nhận thức v.v. Trong lịch sử triết học, những nhà triết học trực tiếp hoặc gián tiếp phủ nhận khả năng nhận thức của con người tạo nên trường phái bất khả tri. Các nhà triết học thuộc phái bất khả tri cho rằng, chỉ có cảm giác và biểu tượng của con người là hiện thực và hiện thực duy nhất.
Trong lịch sử triết học, những nhà triết học thuộc hai trường phái duy vật hoặc duy tâm thì gọi chung là nhất nguyên luận duy vật hoặc nhất nguyên luận duy tâm, bởi họ đều xuất phát từ một bản nguyên vật chất hoặc một bản nguyên tinh thần để giải thích thế giới. Có trường phái triết học lại xuất phát cùng một lúc từ cả hai bản nguyên trên để giải thích thế giới, rằng vật chất và ý thức cùng song song tồn tại, không có cái nào có trước, cái nào có sau, chúng đều có vai trò như nhau đối với quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của thế giới; rằng hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại đồng thời, độc lập không phụ thuộc và nhau và tồn tại vĩnh viễn. Về bản chất, những người theo phái nhị nguyên luận là những người chiết chung muốn dung hoà chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học cho đến nay vẫn có ý nghĩa tới cuộc sống của xã hội hiện đại. Hiện nay giải quyết vấn đề cơ bản của triết học dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của triết học với tư cách là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận.
BÀI IV. NGUỒN TRIẾT
Trong lịch sử nhân loại cũng như trong lịch sử mỗi người, triết bắt đầu khi con người đặt câu hỏi, ý thức được câu hỏi, cố gắng trả lời cho câu hỏi của mình và cố gắng lý luận để chứng minh câu trả lời của mình là đúng.
Câu hỏi chung, căn bản, thiết yếu để tìm ý nghĩa chung cho cả cuộc đời, cuộc đời nhân loại, cuộc đời mỗi người, đó là câu hỏi triết…
Chúng ta bắt đầu với câu chuyện:
Một lần, một chàng trai Do Thái trẻ hỏi giáo sĩ nổi tiếng của họ ở New York về cuốn sách Talmud – Trí tuệ của người Do Thái.
“Anh có nói tiếng Aram không?”, ông hỏi.
– “Không, tôi không biết tiếng đó”
“Thế còn tiếng Hebrew?”, ông tiếp tục hỏi
– Không
Vậy chắc ít nhất anh đã từng nghiên cứu kinh Torah thời niên thiếu?
– Không, tôi cũng chưa từng. Nhưng ngài đừng lo, tôi tốt nghiệp đại học UC Berkeley và tôi mới bảo vệ thành công luận án về Triết học của Socrates. Để hoàn thành vài hạng mục trong đó, tôi cần tìm hiểu về cuốn Talmud.
Giáo sĩ nói: Đây là cuốn sách sâu sắc nhất về trí tuệ của người Do Thái, tôi sẽ ra một thử nghiệm để kiểm tra và nếu anh vượt qua, tôi sẽ giúp anh nghiên cứu nó.
Người thanh niên đồng ý và giáo sĩ tiếp tục:
– Có hai người đàn ông leo ra khỏi một ống khói, một người khuôn mặt còn sạch sẽ, người kia thì nhem nhuốc đen đúa. Vậy ai sẽ là người đi rửa mặt?
Chàng trai tròn mắt ngạc nhiên: “Đây là câu hỏi mang tính logic ư?”
– Rõ ràng người đàn ông mặt bị lấm bẩn sẽ đi rửa mặt.
“Sai rồi! Người đàn ông “mặt bẩn” sẽ nhìn sang người đàn ông “mặt sạch” và cho rằng khuôn mặt mình cũng sạch. Trong khi đó, người đàn ông mặt sạch nhìn người mặt bẩn và nghĩ rằng mặt mình cũng bẩn. Nói cách khác, người mặt sạch sẽ đi rửa mặt.
– Thật là một câu hỏi khó! Chàng trai năn nỉ một câu hỏi khác
Giáo sĩ tiếp tục ra câu đố y hệt lần trước. Và chàng trai liền thắc mắc:
– Chẳng phải người đàn ông mặt sạch đã đi rửa hay sao?
“Sai rồi, cả hai người sẽ đều rửa mặt. Người mặt sạch nhìn người mặt bẩn sẽ nghĩ mặt mình cũng bẩn. Vì thế, người mặt sạch sẽ đi rửa đầu tiên. Sau đó, người mặt bẩn thấy rằng người mặt sạch cũng đã đi rửa mặt, do đó người mặt bẩn cũng đi rửa theo.
– Ồ, tôi không nghĩ là mình đã mắc một sai lầm khác! Giáo sĩ hãy cho tôi thêm một cơ hội.
Giáo sĩ tiếp tục lặp lại câu hỏi như các lần trên, chàng trai nhíu mày: “ Kết quả là hai người đàn ông đều đi rửa mặt rồi mà?”
“Anh lại sai thêm lần nữa! Không ai trong số họ sẽ đi rửa mặt cả. Người đàn ông mặt bẩn thấy người mặt sạch và nghĩ mình cũng sạch sẽ và không đi rửa. Còn người mặt sạch sẽ thấy rằng người mặt bẩn không đi rửa thì anh ta cũng sẽ không cần đi rửa.
Chàng trai trẻ buồn rầu nhưng vẫn cố trấn an giáo sĩ: “Xin thầy hãy tin tưởng vào con thêm lần nữa, con biết con đủ thông minh để học Talmud và hãy hỏi con câu khác nữa”
Giáo sĩ lại đặt câu hỏi y như các lần trước.
Chàng trai tuyệt vọng gào lên: Chẳng ai trong số họ sẽ đi rửa mặt như thầy từng nói ở trên!
“Anh sai nữa rồi! Anh hãy giải thích cho tôi: Tại sao hai người cùng chui ra khỏi một ống khói mà lại có người bẩn có người sạch?
Câu hỏi này hoàn toàn phi lý và vô nghĩa!
Nếu anh dành toàn bộ cuộc sống của anh để tìm hiểu những câu hỏi sai, câu trả lời sẽ chẳng dẫn anh đến đâu cả!
Câu chuyện chỉ ra rằng, triết lý bắt đầu khi con người bắt đầu cảm thấy ngạc nhiên, cảm thấy nghi ngờ, và không bao giờ thỏa mãn để dừng lại trước bất kỳ một vấn đề nào, từ tư tưởng đến thực tại. Jaspers, trong cuốn “Triết Học Nhập Môn”, chương 2, đã nêu lên ba yếu tố làm nảy sinh và phát triển mối thắc mắc nơi con người, đó là ngạc nhiên, hoài nghi, bất thỏa.
– Có ngạc nhiên, thường con người mới tìm tòi để hiểu biết.
– Có biết hoài nghi không dám chắc tâm đối với những điều mình biết, con người mới bó buộc kiểm thảo và tìm đạt cho tới những gì chính xác, minh bạch.
– Có bất thỏa, đôi khi có bị lung lạc và tự cảm thấy mình như sa sảy, con người mới biết tự vấn.
* Ngạc nhiên:
Platon nói rất chí lý: “Ngạc nhiên là khởi điểm của triết lý” (L’ étonnement est le commencement de la philosophie) vì khi nhìn thấy cảnh tượng lạ lùng của các vì sao, mặt trời và không trung, con người ước muốn khám phá, và từ đó triết lý xuất hiện như một quà tặng quí báu nhất mà thần linh dành cho con người (Jaspers trích lại).
Aristote khuyên ta nhìn đời luôn bằng cặp mắt mới, đó là cặp mắt trẻ thơ. Vì đối với trẻ con, cái gì cũng như mới thấy lần đầu. Nhiều người lớn không biết, đã bực mình trước những đòi hỏi đôi khi ngớ ngẩn. Nhưng còn gì là hồn nhiên hơn?
- Lemaitre khẳng định: “Đứa học trò hay nhất của tôi là đứa không đồng ý kiến với tôi, tức là đứa hay thắc mắc và dám đặt lại vấn đề cho rõ ràng hơn. Qua kinh nghiệm dạy học lâu năm, tôi cũng thấy điều này: sau khi nghe trình bày khá tỉ mỉ trong lớp về một vấn đề, tất cả các học sinh đều tỏ ra như quán triệt, thế nhưng nếu đặt những câu hỏi hay bắt giải thích lại, thì hầu như đa số chưa nắm rõ vấn đề”.
Ngạc nhiên là đường dẫn tới trí thức vì ngạc nhiên là biết mình dốt. Và nhờ đó, thái độ hiểu biết ở đây rất thuần túy (biết để biết) “chứ không phải để cầu lợi”. Vì triết lý còn là sự phản tỉnh để thoát ly mọi ràng buộc với cuộc sống tầm thường hằng ngày. Phản tỉnh ấy xuất hiện là khi nhìn sự vật, trời đất vũ trụ với thái độ vô tư, ta tự hỏi: “Tất cả những cái đó có nghĩa gì không? tại sao chúng có? Hỏi thế nhưng ta không cầu lợi, chỉ hỏi vì cần hỏi, thế thôi!”
Như trẻ thơ, chúng ta sử dụng hai loại ngạc nhiên sau đây:
+ Ngạc nhiên do tự nhiên mà có.
+ Ngạc nhiên do mình hay tha nhân gợi cho (ngoại tác).
– Ngạc nhiên tự nhiên.
Ngạc nhiên này thường phát xuất từ sự đối nghịch giữa hai cảnh sống hay do sự trống rỗng. Ví dụ: Một người đang ở chốn ồn ào đô thị, mà tới một cảnh chùa, họ sẽ không khỏi bỡ ngỡ trước cảnh thanh thản trầm lắng của cảnh tu, trong khi đó các thầy chôn mình lâu năm trong thiền viện cảm thấy bình thường. Hoặc trong một gia đình đông đúc, bỗng có người vĩnh viễn ra đi, tự nhiên ai cũng cảm thấy trống vắng làm sao.
– Ngạc nhiên ngoại tác.
Ngạc nhiên này xuất phát từ sự khêu gợi của mình hay của tha nhân. Một nhà giáo dục như Socrates tự ví mình như một bà đỡ, có khả năng giúp học sinh của mình, như các bà mẹ cho ra đời những “đứa con tinh thần” kháu khỉnh! Muốn vậy, ông thường sử dụng những kiểu so sánh, những kiểu nói đối chọi, mâu thuẫn hay các lối quy nạp và diễn dịch… để gây ngạc nhiên nơi môn sinh.
Mỗi người chúng ta cũng phải tạo cho mình khả năng ngạc nhiên: ngạc nhiên không những về những hiện tượng trong vũ trụ hay nơi nếp sống tha nhân mà con biết ngạc nhiên về chính mình. Phải chăng theo nghĩa này có người gọi triết gia là: « L’homme de la question et l’homme à la question! » (Con người hay hỏi và con người bị đặt thành vấn đề).
* Hoài nghi:
Nhờ bỡ ngỡ và ngạc nhiên mà biết được một ít sự thật rồi, nhưng biết chưa chắc chắn thì còn phải hoài nghi. Quả thế, ta biết rất nhiều nhưng nếu kiểm thảo lại ta sẽ thấy không có gì xác đáng cả ví dụ những tri giác đều bị giác quan chi phối nên chúng có thể lừa dối ta, vì thực sự chúng không phù hợp với những thực tại ngoại tại, những tri giác ta có về chúng.
Cái gì ta đã biết chắc ta không cần câu hỏi nữa. Nhưng trên đời này, có gì ta biết rõ một trăm phần trăm đâu? Do đó ta có quyền hoài nghi về bất cứ vấn đề nào. Tuy nhiên cần minh đinh thêm: Trong triết học, hoài nghi khác với óc đa nghi, vì đa nghi là bạ gì cũng nghi ngờ hay chối bỏ. Hoài nghi triết học chỉ là một phương pháp (doute méthodique). Qua đó ta không vội vã chấp nhận một điều gì khi chưa xét lại các giá trị, để hiểu cho tới ngọn nguồn của nó. Như thế hoài nghi triết học được đặt ra nhằm phê bình chứ không phải để phản đối hay dẹp bỏ. Vậy đâu là điều kiện phải có khi phê bình?
– Trước hết, phải tìm đủ tài liệu về vấn đề mình đang nghiên cứu để phê bình.
– Thứ đến ta không được vị nể hay nhút nhát trước uy danh của một tác giả, khi ta phê bình tác phẩm của họ, miễn là mình thành thực và có đủ bằng cứ và tài liệu…
– Phải luôn tự hỏi: Mình thường phê bình theo nguyên tắc nào (nguyên tắc đạo đức, nguyên tắc của chế độ, nguyên tắc khoa học…) và nguyên tắc ấy đúng hay sai?
– Đừng phê bình điều gì khi lòng mình còn cảm xúc. Nếu chưa tự làm chủ được lòng mình, tốt hơn là gác lại lúc khác.
Để kết luận triệt này, xin trích dẫn xác quyết của Jaspers: “Phương pháp hoài nghi buộc ta phải phê bình tất cả mọi tri thức. Cho nên không hoài nghi triệt để thì không có triết học đích thực – La doute méthodique entraine sans doute radical il n’est pas de philosophie veritable” (Introd à la philosophie, page 28).
Cả đến những hình thức tư tưởng của ta cũng chỉ là hình thức riêng của trí năng chúng ta. Chúng lại cấu kết với nhau thành những mâu thuẫn nan giải. Luôn luôn quyết lý này phản lập với quyết lý khác. Vì vậy nếu muốn triết lý, ta phải biết hoài nghi và phải hoài nghi đến cùng. Làm thế, một là chỉ có việc hoài nghi và tư tưởng không thể tiến nữa cũng không còn gì đứng vững trước thái độ hoài nghi toàn diện nữa; hai là phải tìm ra được một căn bản đích xác tuyệt đối, bất kháng. Như với Descartes: “tôi suy tư, vậy, tôi có” là một căn bản bất kháng, khi ông khám phá thấy rằng: mọi cái khác đáng phải hoài nghi cả. Ông luận lý: đối với những điều tôi biết nếu tôi có hoàn toàn sai lầm đi nữa, nhưng về sự kiện “tôi có” không tài nào bao giờ tôi lầm được, dầu có ai cố ý đánh lừa tôi,
Ở đây ta thấy, yếu tốt hoài nghi đi xa hơn yếu tố ngạc nhiên, vì ngạc nghiên thường nhắm sự vật, còn hoài nghi nhắm chính căn bản của tư tưởng, vì thế nó giúp trí khôn đào xâu vấn đề hơn.
Tóm lại, hoài nghi có phương pháp như vậy lại đẻ ra óc biết phê bình những điều ta biết, vậy nếu không hoài nghi triệt để, thì không bao giờ triết lý thực thụ được. Nhưng điều cần là phải biết hoài nghi giúp ta khám phá được căn bản bất kháng lúc nào và như thế nào?
* Bất thỏa:
Yếu tố bất thỏa nảy sinh từ ý thức về giới hạn của mình và của vạn vật.
Trong khi tìm hiểu vạn vật ngoại tại và hoài nghi tất cả để khám phá ra một căn bản bất thỏa. Những lúc ấy tôi còn bận bịu với ngoại tại, chưa suy tưởng đến bản thân tôi, tới cứu cánh, tới hạnh phúc và sự giải thoát của tôi. Trong những lúc đó tôi lại như muốn quên bặt tôi đi, dễ hiểu biết những gì mới lạ.
Nhưng khi nào tôi bắt đầu ý thức về tôi, trong hoàn cảnh của tôi, thì mọi sự sẽ thay đổi.
Epictète, một triết gia khắc kỷ đã nói: “nguồn suối triết lý là nhờ khi ta thấy ta nhu nhược và bất lực”. Vậy làm thế nào thoát ly tình trạng bất lực đó? Nhà hiền triết ấy trả lời: “Tôi phải bỏ qua những gì tôi bất lực vì lẽ tất nhiên không làm nổi. Ngoài ra những gì xem ra tôi có khả năng làm được, thì tôi phải vận dụng hết nghị lực tinh thần của tôi để làm cho kỳ được, nhất là những gì tôi quan niệm ra, tôi phải thực hiện cả nội dung, cả hình thức của chúng dưới ánh sáng minh bạch và tự do”.
– Bất thỏa về bản thân.
Về phương diện tri thức, như người ta thường nói: “càng học càng thấy mình dốt”. Thời xưa trước thái độ tự mãn của nhóm ngụy biện, Socrate đã phê phán: “Không có sự ngu dốt nào nhục nhã bằng khi ai tưởng rằng mình hiểu những gì mình chưa thật hiểu”. Khôn ngoan thật, theo Đức Khổng Tử, là “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” (cái gì biết thì nhận là biết, cái chi không biết thì nói không biết, đó mới là biết).
Về mặt tài đức, mỗi người chúng ta càng ý thức hơn giới hạn của mình. Chúng ta thường nghe đề cập đến sự trưởng thành nhân bản. Nhưng trưởng thành nhân bản là gì nếu không phát huy toàn diện, gồm cả lý trí, ý chí lẫn tình cảm… Thế nhưng bao lâu, ta còn có thể vấp ngã trong cuộc sống, bấy lâu mục tiêu của sự trưởng thành còn xa vời.
– Bất thỏa về vạn vật, và về xã hội chung quanh.
Trật tự vũ hoàn vô cùng kỳ diệu đối với khối óc con người. Thế nhưng trật tự ấy vẫn còn còn nhiều giới hạn: những cuộc động đất, những thiên tai lũ lụt, hạn hán…đặt con người trong tình trạng báo động triền miên.
Các thể chế chính trị một thời làm mưa làm gió… Nhưng tất thảy không khác chi những đợt sóng to sấn vào bờ như muốn nuốt sống đất liền, thế mà trong chốc lát đã nằm rạp xuống bãi! Gần đây nhất, có người tiên đoán trên báo Công Giáo và Dân tộc rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ chiếm lĩnh thế giới. Thế nhưng khi bức thành Berlin sụp đổ… chắc không còn ai tin vào lời tiên đoán trên kia nữa.
Trước những giới hạn của bản thân, trước những đổ vỡ xã hội và trước những đe dọa triền miên trên cuộc sống con người, nảy sinh nơi con người triết lý hai thái độ: Một là thất vọng nếu coi đời như một cuộc nôn mửa (J. Paul Satres) để rồi lao mình vào những cuộc truy hoan và hưởng thụ vị kỷ. Hai là thái độ tự vượt để vươn lên (se dépasser) hầu đạt tới một đối tượng siêu việt.
Hẳn thật, trần gian và đời người không phải là đích điểm hạnh phúc, nhưng dù sao cũng là bàn đạp cần có để vươn lên, khả năng vươn lên nói đây thường đi đôi với sự chấp nhận rằng mọi thụ tạo mang tính biến chứng. Những thất bại, rủi ro, đổ vỡ không còn là tường chắn, trái lại chúng trở thành phản đề, khả dĩ kích thích tính mạo hiểm của những ai muốn trở thành philosophos, tức người say tìm sự khôn ngoan.
Như thế trong ba yếu tố, “bất thỏa” tạo cho ta một hướng đi quyết liệt nhất.
Ba nguồn triết lý và thông cảm
Theo những điều nói từ đầu tới đây, ngạc nhiên, hoài nghi, thất bại là những nguồn suối phát sinh ra triết lý. Trong mỗi trường hợp, bắt đầu con người cảm thấy bị lung lạc, rồi họ mới cảm thấy cần đi tìm một hướng.
– Như nhờ sức thúc đẩy của ngạc nhiên, Platon, Aristote mới đi tìm yếu tính của sự Hữu.
– Qua muôn vàn bất xác và khả nghi, Descartes mới tìm ra được một chính xác bất khả nghi.
– Qua muôn ngàn đau khổ của cuộc đời; các triết gia khắc kỷ mới đi tìm sự bình an cho tâm hồn.
Tuy trong lịch sử nhân loại mỗi lần thể hiện dưới những biểu thị và ngôn ngữ khác nhau nhưng mỗi kinh nghiệm trên đều đích thực cả. Phải nhận thức được sự cần thiết của chúng trong lịch sử nhân loại ta mới đi sâu được tận nguồn của chúng và mới thay chúng còn hiện diện trong ta.
Tóm lại, ngạc nhiên để đạt tới hiểu biết, hoài nghi để đạt tới đích xác và tình trạng cảm nghiệm thấy mình sa đọa đã được giải thoát cả ba nguồn suối ấy vẫn chưa nêu được hết lý do thúc đẩy ta triết lý ở thời đại này. Vì thời đại chúng ta là thời đại dòng lịch sử đang liên tục đã bị cắt đứt. Hơn nữa, thời này là thời đổ nát như chưa từng thấy, thời đại đầy bấp bênh, u uẩn không thể dự đoán. Cả ba động cơ phát sinh triết lý vừa nói trên đều có giá trị cả, nhưng vẫn không đủ. Chúng còn lệ thuộc vào một điều kiện khác là sự thông cảm giữa người với người.
Thực vậy, trong lịch sử tự ngàn xưa giữa người với người vẫn đã có những giây liên hệ mật thiết như những đoàn thể người trong đó mỗi người có thể tín nhiệm lẫn nhau, hay những thể chế, hay tinh thần cộng đồng. Một con người sống lẻ loi mấy cũng vẫn cảm thấy được đoàn thể nâng đỡ.
Nhưng ngày nay, sự liên đới ấy đã suy sụp hẳn; lý do là vì càng ngày người ta càng không hiểu nhau nữa. Họ gặp nhau, rồi lạnh lùng chia tay nhau. Như thế làm gì còn thành tín, còn cộng đồng nào vững chãi, và đáng tín nhiệm nữa?
Thông cảm không phải chỉ thông cảm bằng lý trí với lý trí, hay bằng tinh thần với tinh thần, mà còn bằng hiện sinh với hiện sinh. Với sự thông cảm này những ý nghĩa và giá trị do những sự vật vô linh đem lại chỉ được coi là những trung gian, ở đây, cả thái độ biện hộ cho nhau, cả thái độ tấn công nhau, đều không phải để chinh phục, chiến thắng nhau mà là để gần gũi nhau.
Tóm lại, triết lý bắt nguồn tự khả năng ngạc nhiên, biết hoài nghi, biết cảm nghiệm những hoàn-cảnh giới-hạn bất-dịch, nhưng sau cùng bao hàm được tất cả, phải kể tới ước vọng thông cảm thật sự. Điều đó đã thấy rõ ngay ban đầu, vì triết lý đã thiết yếu muốn được phổ biến, diễn tả ra, để ai ai cũng nghe và hiểu được. Vì bản chất triết lý là phải được truyền bá ra cho người khác. Đặc điểm ấy phải gắn liền với sự thật của nó. Nhờ thông cảm mục đích của triết lý muốn đạt được vì ở đây mọi chủ đích khác cũng mới thực hiện được như: tìm hiểu hữu, soi sáng tình yêu, gặp được sự an tĩnh hoàn bị.
BÀI V. THÁI ĐỘ KHI NGHIÊN CỨU TRIẾT
Triết lý trước hết, dựa trên lý trí con người, những nỗ lực của lý trí con người, phải khai thác đến tận cùng khả năng của lý trí để tìm sự thật và kiểm tra sự thật. Nhưng khi nào đi đến bế tắc, không thể thông qua được, lý trí sẽ nhận ra giới hạn của mình và cởi mở với những gì có thể bổ sung, giải quyết bế tắc, đặc biệt về những câu hỏi cơ bản: Sống để làm gì? Chết rồi đi đâu? Ý nghĩa cuộc đời là gì?… Thái độ cởi mở này, dù vẫn phải tiếp tục cứu xét, được gọi là lý trí cởi mở, triết cởi mở. Và cũng là thái độ hữu lý khôn ngoan nhất, “triết” nhất. Thái độ ngược lại, lý trí khựng lại, tự phụ, kiêu hãnh, không chấp nhận những gì vượt giới hạn của mình, thái độ đó được mệnh danh là lý trí khép kín, thuyết duy lý, chỉ thu mình vào chính mình, vào lý trí mà thôi.
- 1. Tránh hai thái cực sai lầm.
Có hai thái cực trái SAI LẦM ngược nhau khi đánh giá vai trò của triết học trong cuộc sống:
+ Thái cực thứ nhất coi thường vai trò của triết học vì cho rằng:
– Triết học nghiên cứu và giải quyết những vấn đề quá chung nên những kết quả nghiên cửu của nó không có tác dụng thiết thực gì hết,
– Triết học không có phương pháp và trang thiết bị nghiên cứu riêng của mình như của khoa học tự nhiên nên tính chân lý của các kết quả nghiên cứu triết học không được bảo đảm.
+ Thái cực thứ hai, ngược lại, lại tuyệt đối hoá vai trò của triết học, cho rằng chỉ cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của cuộc sống.
Cả hai thái cực trên đều sai lầm vì để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể của cuộc sông, cần kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức: Tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết tình hình thức tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn).
- Nghi ngờ hoặc coi thường triết.
Thứ nhất: Triết học, như chúng ta biết, đã có lịch sử tồn tại suốt mấy ngàn năm với rất nhiều hệ thống, trào lưu, trường phái khác nhau. Mặc đầu vậy, cho đến nay, hầu như không có một định nghĩa nào về triết học được mọi người thừa nhận. Sự thống nhất ý kiến giữa các nhà triết học vĩ đại về một định nghĩa triết học nào đó là hết sức hiếm hoi, gần như là một ngoại lệ. Song, cũng giống như trong lĩnh vực văn hoá, với trên 300 định nghĩa khác nhau, nhưng không vì vậy mà văn hoá không phát triển. Triết học cũng thế. Tuy hiện chưa có định nghĩa nào được mọi người thừa nhận, nhưng triết học cũng không vì vậy mà không tiếp tục tồn tại và phát triển, không tiếp tục xuất hiện thêm các hệ thống, trào lưu, trường phái mới.
Triết học, ngay từ khi mới nảy sinh và cho đến mãi tận nay, dù tồn tại ở phương Đông hay phương Tây, dù dưới dạng các hệ thống, trào lưu, trường phái rất khác nhau, nhưng nội dung cốt lõi của triết học bao giờ cũng bao gồm những quan điểm lý luận chung nhất, những lời giải đáp có luận chứng (dù được tán thành hay không được tán thành) cho những câu hỏi của con người về thế giới xung quanh mình, về vị trí của con người trong thế giới đó, về quan hệ giữa con người với thiên nhiên và với bản thân con người. Trong triết học, người ta luôn tìm thấy những biện luận, phán xét suy tư, những băn khoăn, trăn trở cùng những lời giải đáp cho các câu hỏi về số phận của cá nhân con người trước thiên nhiên bao la, về nguồn gốc cùng những bí ẩn của thiên nhiên bao la ấy, những sức mạnh, những lực lượng chi phối nó và chi phối cuộc sống của chính bản thân con người, về cuộc sống và cái chết của họ… Những lời giải đáp ấy, dù là khác nhau trong các hệ thống, trào lưu, trường phái triết học khác nhau nhưng đều là những cách lý giải nhất định về thế giới mà trong đó con người đang sống theo quan điểm của các hệ thống, trào lưu, trường phái triết học đó.
Song, bất cứ hệ thống lý luận nào cũng không bao giờ chỉ làm một nhiệm vụ là lý giải về thế giới. Triết học cũng vậy. Trên cơ sở của sự lý giải ấy, triết học trở thành cái đinh hướng cho con người trong hành động. Khi trở thành cái định hướng cho con người trong hành động, triết học thực hiện một chức năng khác – chức năng phương pháp luận.
Về nguyên tắc, giá trị định hướng này của triết học không khác với giá trị định hướng của các nguyên lý, quy luật, hệ thống lý luận của các bộ môn khoa học chuyên ngành nào đấy về một lĩnh vực nhất định nào đó của hiện thực, chẳng hạn, không khác với giá trị định hướng của định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, của quy luật giá trị… Cái khác chỉ là ở chỗ, vì các nguyên lý, các khẳng định của triết học là kết quả nhận thức những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất của cả tự nhiên, xã hội lẫn tư duy, cho nên chúng có tác dụng định hướng không phải chỉ trong một phạm vi nhất định nào đấy như trong trường hợp các nguyên lý, quy luật do các khoa học chuyên ngành nêu lên, mà ở tất cả mọi lĩnh vực các nguyên lý, các khẳng định triết học ấy giúp cho con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt động cải biến sự vật bao giờ cũng có được một lập trường xuất phát nhất định. Lập trường xuất phát ấy giúp cho chủ thể hành động thấy trước được phương hướng vận động chung của đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải biến sự vật phải trải qua, nghĩa là nó giúp cho con người xác định được về đại thể con đường cần đi, có được phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề, tránh được những mò mẫm giữa một khối những mối liên hệ chằng chịt hết sức phức tạp mà không có tư tưởng dẫn đường. Xuất phát từ một lập trường triết học nhất định, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn một phương hướng giải quyết vấn đề theo một cách thức nhất định, và xuất phát từ những lập trường triết học khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa chọn những phương hướng và cách thức giải quyết vấn đề một cách khác nhau. Điều đó có nghĩa là, việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đấy sẽ không chi đơn thuần là sự chấp nhận hay không chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận hay không chấp nhận một cơ sở phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hành động.
Thứ hai: Triết học không có phương pháp nghiên cứu riêng của mình, trong khi đó các khoa học tự nhiên dùng các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại với sự trợ giúp của các phương tiện hiện đại nên tính chân lý của các kết quả nghiên cứu đạt được được bảo đảm.
Những ý kiến nhận xét trên đây, trong chừng mực nhất định, cũng có căn cứ của nó, vì đúng là triết học không có trong tay mình một phương tiện kỹ thuật nào, một thiết bị quan sát, thí nghiệm nào để tiến hành thu thập tài liệu, nghiên cứu và trên cơ sở đó, tiến tới khám phá những bí ẩn của sự vật, hiện tượng mà mình nghiên cứu. Vậy, triết học dựa vào đâu và làm cách nào để đi tới chân lý?
Trên cơ sở phân tích và khái quát hoá đặc điểm nhận thức của triết học trong suốt quá trình phát triển lịch sử của nó, nhiều tác giả rút ra kết luận rằng, triết học tự bản thân nó không trực tiếp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể, nhưng nó sử dụng các kết quả của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn đã được ghi lại trong các khái niệm, lý thuyết của các bộ môn khoa học chuyên ngành khác, được thể hiện trong các tác phẩm vặn học, nghệ thuật, các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ… Tất cả những cái đó tạo nên “nền tài liệu thực nghiệm” mà xuất phát từ đấy, triết học đi tới các phát hiện của mình.
Học triết lý cổ kim, nhiều khi chúng ta đâm ra nghi ngờ về hiệu năng của triết lý. Người ta thường mỉa mai rằng: “Không có hai triết gia nào đồng quan điểm vơi nhau về một vấn đề triết lý. Ý kiến của họ đôi khi còn đối chọi với nhau nữa là khác.” Vậy phải chăng triết lý chẳng qua chỉ là những cuộc tranh luận vớ vẩn kiểu ông nói gà bà nói vịt?
– Triết lý là khoa học về con người. Là con người, ai cũng có khả năng tư duy. Tư duy, tự bản chất, thích truy tầm chân lý, dựa trên những nguyên lý tối sơ và xuất phát từ khả năng suy nghĩ. Ta hãy lấy một ví dụ: một người thích hát, đương nhiên giả định rằng họ có khả năng hát (trừ một vài ngoại lệ bệnh tật). Dĩ nhiên có người hát hay, vừa hoặc tạm tạm vậy. Sự đánh giá của thính giả cũng lệ thuộc vào kiến thức âm nhạc, vào thị hiếu và đôi khi do tình cảm của họ đối với ca sĩ.
Cũng thế, ai cũng có khả năng triết lý, vì khả năng này đi đôi với tâm thức của con người. Tuy nhiên vì chân lý vô hạn, lý trí không sao quán triệt, thành thử mỗi người chỉ nắm bắt chân lý trong giới hạn của mình. Tuy nhiên không vì lý do ấy mà phủ nhận triết lý, vì dù sự hiểu biết có hạn, mỗi triết gia cũng nói lên một khía cạnh nào đó của chân lý. Điều quan trong là ta hãy làm một cuộc tổng hợp vừa đầy đủ, vừa hài hòa, tất cả các triết thuyết để tạo nên một “Philosophia perrennis”, một triết thuyết mang tính thuyền thống.
Nhiều triết gia như Descartes hay Kant, có tham vọng biến triết lý thành một khoa học minh bạch và khúc chiết (Claire et distincte) như toán học. Nhưng các ông đã thất bại hoàn toàn. Điều đó không làm ta bỡ ngỡ vì khoa học thực nghiệm và toán học mang tính “chung thẩm”,nghĩa là khi nó đã đưa một định luật hay định lý thì bắt buộc mọi người phải chấp nhận. Trái lại, triết lý mang tính biện chứng (dialectique). Dù triết gia đã đưa ra những kết luận chính xác cho một vấn đề, thì vấn đề có thể gợi lên những câu hỏi mới. Như chúng tôi đã trích dẫn Jaspers nói: “Triết lý là khoa đặt vấn đề hơn là giải quyết vấn đề”. Điều ấy không làm ta thất vọng, vì đặc tính sau đây của con người.
Con người là hữu thể tự do và tại thế. Triết lý là khả năng đánh giá và sự đánh giá này lệ thuộc rất nhiều điều kiện cá biệt của lý trí, ý chí và tình cảm của mỗi người. Đó là tính độc đáo của con người tự do.
Thứ đến, con người là hữu thể tại thế, nghĩa là sống cùng, sống với đồng loại và trong hoàn cảnh cụ thể. Triết lý, dù hữu thần hãy vô thần, đều có tham vọng ảnh hưởng trên cuộc sống đại chúng. Quả thật, như chúng tôi đã chứng minh ở triết lý Đức Phật, Đức Khổng xưa kia cũng như thuyết hiện sinh hôm nay đã có ảnh hưởng to lớn trên nhiều thế hệ và dân tộc…. Bréhier đã có lý khi ông phát biểu: “Triết học đã trở thành một cái chi tồi tàn nếu họ không liên kết với những hệ thống triết học vĩ đại, nếu người ta nhìn nhận chúng như là phản ứng cảu một nhà tư tưởng đối với một tình trạng toàn diện chính trị, luân lý và tinh thần” (La phil.et son passé, p.4-5).
- Sùng thượng hoặc tuyệt đối hóa triết.
Bên cạnh thái độ coi thường vai trò của triết học – một thái độ rất tiếc rằng, hiện nay vẫn hiện diện ở nơi này, nơi kia, trong lĩnh vực hoạt động này hay khác – lại có một thái độ khác: thái độ tuyệt đối hoá vai trò của triết học, nghĩ rằng chỉ cần nắm được triết học thì lập tức sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của thực tiễn. Có nơi, có lúc, vì quá nhấn mạnh vai trò của triết học nên đã gây ra ở một số người ảo tưởng rằng, triết học là cái chìa khoá vạn năng, chỉ cần nắm được nó là tự khắc sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Có nơi, có lúc, với lòng nôn nóng muốn đưa triết học vào phục vụ hoạt động thực tiễn, các ‘triết gia” đã hăng hái lao vào nghiên cứu, giải quyết những vấn đề thực tiễn quá cụ thể chỉ với những tri thức triết học chung mà quên mất rằng, để có thể tìm ra lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề hết sức cụ thể, bên cạnh những tri thức lý luận chung, trong đó có tri thức triết học, còn cần có hàng loạt tri thức khác nữa, như sự am hiểu tường tận về tình hình thực tế liên quan đến vấn đề cụ thể đang được xét trong một bối cảnh không gian – thời gian nhất định, sự hiểu biết sâu sắc về nghề nghiệp, đặc biệt là sự nhạy cảm thực tiễn, một sự nhạy cảm chỉ có được qua quá trình đào luyện, lăn lộn lâu năm trong nghề. Thiếu những cái vừa nói, không một nhà triết học uyên bác nào có thể tìm ra được một lời giải đáp đúng đắn nào cho bất cứ một vấn đề cụ thể nào của cuộc sống, cho dù đó là một vấn đề đơn giản nhất đi nữa.
Trong lịch sử triết học Trung Quốc, có các bậc hủ nho, hay trong triết học Kinh viện thời Trung Cổ, có nhiều triết gia đề cao các bậc thầy đi trước như thần thánh, đến nỗi triết lý đối với họ không gì khác hơn là trích dẫn cho thật nhiều những câu kinh sách của các thánh hiền, những câu nói của Aristote hay thánh tiến sĩ Thomas d’Aquine. Ta có thể mở dấu ngoặc để kể thêm đây những người tôn thờ một chủ nghĩa như Mác Lê hay Mao Trạch Đông. Những lời trích dẫn ấy khác nào lời Chúa mạc khải, chúng mang tính vô ngộ. Chúng ta dễ dàng khám phá nơi thái độ tiêu cục này hai nguyên nhân:
– Tính lười suy nghĩ. Hẳn thật người Việt Nam ta nổi tiếng học thuộc lòng và rành nghề đạo văn (ăn cắp văn cũng như ăn cắp mẫu mã). Muốn làm một luận văn triết học, đã có những bài luận mẫu, được các tác giác chuyển ngữ từ sách của Fouliquié; muốn giảng, đã có các sách bài giảng Chúa Nhật và Lễ Trọng…
– Tính sùng thượng thiên tài. Các bậc thánh hiền như Khổng, Phật, các nhà tư tưởng như Marx, Engels… được coi như mô phạm. Một bài luận văn được kể là hay nếu có nhiều trích dẫn tác phẩm các bậc thầy nói trên. Cha D. Chenu. OP, một giáo sư tên tuổi của trường phái thánh Thomas đầu thế kỷ XX cũng phải than phiền khi điểm tác hại tính thần sùng thượng nói trên, ngài viết: “Khoa Kinh viện là kết tinh của một cuộc khám phá và phục hưng thời thượng cổ…. Nhưng khi đóng vai ấy, các văn thư Kinh viện, như chúng ta nhận thấy cách dễ dàng, đã trở thành nguyên nhân gây sự ứ đọng triết học”. Và để kết luận, Cha Chenu khôi hài mô tả: “Nous sommes des nains montés sur les épaules des géants” (Chúng ta là chàng lùn được trèo lên vai những người khổng lồ).
- Thái độ cần phát huy
Để có thể giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể hết sức phức tạp và vô cùng đa dạng của cuộc sống, chúng ta cần tránh cả hai thái cực sai lầm (như đã phân tích ở trên): hoặc là xem thường triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể, nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công việc; hoặc là tuyệt đối hoá vai trò của triết học và do đó sẽ sa vào tình trạng áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật, những tri thức triết học chung mà không tính đến tình hình cụ thể đó không nắm được tình hình cụ thể đó trong từng trường hợp cụ thể, hậu quả là sẽ khó tránh khỏi bị thất bại.
Kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức trên đây tri thức chung (trong đó có tri thức triết học và tri thức khoa học chuyên ngành) và tri thức thực tiễn (trong đó có sự hiểu biết tình hình thực tiễn và trình độ tay nghề được biểu hiện qua sự nhạy cảm thực tiễn) – đó là tiền đề cần thiết đảm bảo thành công trong hoạt động cụ thể.
Chữ Philosophia nêu rõ mối tương quan mật thiết giữa tình yêu và sự truy tầm chân lý, không những triết gia mà cả người học triết phải nhận thức tính quan trọng của triết học. Lịch sử trên bốn nghìn năm của nhân loại, với ba nền văn minh vĩ đại Mesopotamia, Ấn Độ và Trung Quốc, chứng minh rằng triết lý đã là đối tượng thu hút hàng vạn hiền triết, để rồi từ đó nảy sinh những cuộc cách mạng tinh thần, khả dĩ làm đảo lộn cục diện thế giới.
Ý thức tầm quan trọng của triết lý, giáo luật số 652,2 đặt môn triết lý vào chương trình đào tạo giáo sĩ và tu sĩ như một điều kiệt tất yếu cho việc huấn luyện định kỳ và thường kỳ.
Ở các nước Âu Mỹ, triết lý cũng là môn bắt buộc trong chương trình Trung học và đại học. Chỉ trong Giáo Hội Công Giáo đã có trên sáu mươi đại học và 30 trung tâm nghiên cứu triết học, ngoài ra còn có ít nhất là 16 hàn lâm viện quốc gia có phân khoa về triết học.
Hằng năm người ta tổ chức nhiều hội nghị triết học và các mục chuyên đề về tâm lý, triết sử hay một tác giả nổi danh như thánh Thomas Aquino, Hussert, H. Bergson, v.v.. Các hội nghị này nhằm đối chiếu quan điểm của các trường phái, hầu dẫn tới sự hợp tác trong vấn đề nghiên cứu triết học.
Chừng ấy sự kiện đủ nói lên tầm quan trọng của triết học trong thế giới hôm nay. Mặc dù con người thời đại ta bị chi phối rất nhiều bởi kinh tế và có khuynh hướng hưởng thụ. Tuy nhiên bao lâu con người còn có lý trí, bấy lâu triết lý còn có đất đứng, vì triết lý không gì khác hơn là thỏa mãn khát vọng chân, thiện, mỹ nơi con người.
Bài VI. TÍNH ĐỘC LẬP CỦA TRIẾT LÝ [2]
- Tinh thần độc lập bị đe dọa
Các chính sách chuyên chế thường đố kỵ tinh thần độc lập nơi mỗi cá nhân, ví dụ một tôn giáo võ đoán khi nó cưỡng bách mọi người phải phục tùng một chân lý duy nhất, hay một chính quyền độc tài khi nó muốn áp đảo mọi sáng kiến cá nhân phải uốn mình trong guồng máy thống trị của nó mà không để cá nhân theo sở thích riêng của họ; ngay đến cả những cuộc giải trí lành mạnh cũng phải đi theo đường hướng đã chỉ định sẵn.
Ngoài ra tinh thần độc lập còn có thể mất hút êm ru đi trong những tập quán, những khẩu hiệu tuyên truyền thông thường đã đổ tràn vào cuộc sống hằng ngày, vì tinh thần độc lập đã bị gỳm nghịp đi trong óc não quần chúng vô thức.
Nhưng triết lý là phải phấn đấu luôn luôn cho tinh thần độc lập nội tâm ấy, bất cứ ở hoàn cảnh nào.
- Tinh thần độc lập nơi các triết gia khắc kỷ.
Ngay từ thời thượng cổ, đã xuất hiện những triết gia mô phạm hoàn hảo cho tinh thần độc lập. Họ độc lập thứ nhất vì ra như họ không còn nhu cầu; đã thoát ly thế gian, những của cải vật chất và những bản năng cuồng nhiệt, họ mới sống cuộc đời khổ hạnh. Thứ hai, họ không sợ sệt vì họ đã nhìn rõ sự lừa đảo trong những huyền thoại các tôn giáo đã tạo bừa ra để gieo sợ hãi vào lòng người. Thứ ba, họ không tham gia chính quyền và chính trị, họ sống an nhàn xa xã hội, không liên hệ với một cái gì cả, y như những người tự xưng là công dân thế giới.
Tóm lại, họ đã tin rằng mình đã đạt được một tinh thần độc lập tuyệt đối, một quan điểm vượt xa thế sự, và do đó, họ tự coi mình là bất vi phạm và bất khả lay chuyển.
Từ đó, họ được người đời ca tụng, nhưng đồng thời cũng bị họ nghi kỵ. Thực vậy, tuy khi đầu thai vào những bộ mặt khác nhau, họ cũng chứng tỏ họ có một tinh thần độc lập không nhỏ, vì họ cũng đã biết sống thanh bần, sống độc thân và sống xa mọi hoạt động nghề nghiệp và chính trị. Hơn nữa, họ còn chứng tỏ rằng: họ có thể đạt tới được một nguồn hạnh phúc lý tưởng, không bị lệ thuộc vào một cái gì ngoại tại; hạnh phúc ấy là ở chỗ họ ý thức được rằng: họ chỉ sống ở trần gian này như một lữ hành và không đếm xỉa gì đến những tai họa do số mệnh có thể gây ra cho họ.
Nhưng trong số những bộ mặt độc lập ấy, nhiều người đã tỏ ra tự đắc vô độ, hay muốn thống trị độc tài và do đó, họ còn kiêu căng, khoe khoang, lạnh lùng kỳ lạ với người khác và ác cảm xấu xa đối với những triết gia khác. Tất cả những ông này đều chủ trương những lý thuyết độc đoán. Vì vậy tinh thần độc lập của họ thường không được tinh túy, mà lại bị lệ thuộc một cách kỳ khôi đến nỗi họ không thể ý thức.
Nhưng với chúng ta (người Âu châu) ngoài tôn giáo theo Kinh thánh ra, chúng ta còn có thể có được một nguồn suối phát sinh tinh thần độc lập khác nữa, như khi làm thân với những triết gia đó, tự nhiên ta cảm thấy trào vọt lên trong ta ý thức tự lập; như thế có lẽ là vì họ thấy rằng: họ không thể đứng vững mãi trên một vị trí cô lập xa biệt với mọi sự được.
Đó là một ý chí tự do tự phụ là tuyệt đối, nhưng tự do ấy lại lập tức trở thành một sự nô lệ khác, vì bên ngoài, khi mưu đồ cho người khác ca ngợi mình thì các triết gia ấy đã bị lệ thuộc những dục vọng thầm kín (tức muốn độc lập cho người ta khen) mà họ không biết. Nên con đường các triết gia khắc kỷ đã theo không phải là con đường cho ta bắt chước. Với ta một phần nào họ vẫn là những bộ mặt vĩ nhân. Vì tuy có tranh đấu cho tự do, nhưng họ vẫn thể hiện ra với ta như những bóng người khô khẳng hay những mặt nạ trống rỗng đằng sau không có gì cả.
Tóm lại, ta đã nhận thấy một khi tự coi mình là tuyệt đối thì tinh thần độc lập lại biến thành một sự lệ thuộc.
Vậy chúng ta phải làm gì để tranh thủ độc lập cho ta?
Trả lời câu hỏi ấy không phải dễ.
- Những ý nghĩa hàm hồ trong tinh thần độc lập của triết lý.
Tinh thần độc lập triết lý là một tinh thần thiết yếu hàm hồ. Sau đây là mấy ví dụ:
Triết lý, nhất là Siêu hình học có thể tự do khai triển những kỹ thuật trừu tượng và phác họa ra những hình thức tư tưởng; nhưng con người sáng nghĩ ra chúng vẫn siêu vượt hơn chúng vì họ còn muôn vàn khả năng mở rộng trước mặt họ.
Nhưng tuy thế, ta vẫn còn có thể thắc mắc về hình thức độc lập này, vì có thể đặt vấn đề sau đây:
– Hoặc là gạt Thiên chúa ra một bên và tự mình theo đuổi sức mạnh sáng tạo của mình mà không cần dựa vào một nền tảng nào cả; rồi cứ thế hành động theo những quy luật chính họ đã đặt ra và say sưa với hình thức họ đã sáng nghĩ ra. Làm thế, con người có thật làm chủ được những tư tưởng của mình không?
– Hoặc là ngược lại, chính vì muốn liên hệ với Thiên chúa mà con người vượt lên trên cả ngôn ngữ của họ. Mà ngôn ngữ là phương tiện để họ trang hoàng và nhắc nhở được sự Hữu tuyệt đối, tuy ngôn ngữ ấy không rõ rệt và có thể biến thái muôn hình vạn trạng.
Tóm lại, ở đây độc lập theo triết lý là không được coi tư tưởng của riêng mình như những tín lý hay không được phục tòng chúng mà lại phải làm chủ tư tưởng của mình.
Nhưng làm chủ tư tưởng của mình lại là một vấn đề hàm hồ vì:
– Một là (tuyệt đối tự chủ, nghĩa là) không liên hệ gì với ai cả, cứ việc tự tiện làm gì thì làm.
– Hai là (cũng có nghĩa là tương đối tự chủ, nghĩa là) còn liên hệ với Siêu việt thể.
Một ví dụ khác, như khi muốn độc lập đích thực, chúng ta còn đi tìm một vị trí khác gọi là“điểm Archimede” ở bên ngoài vũ trụ.
Đó là một lý tưởng rất đích đáng, nhưng ta vẫn không khỏi thắc mắc hỏi rằng: điểm Archimede có cô lập hóa được con người với những gì chung quanh họ để họ hoàn toàn độc lập tôn họ thành một ông Thiên chúa khác không? Hay điểm Archimede ở bên ngoài vũ trụ ấy lại đặt họ đúng vào một vị trí mà họ có thể bắt gặp được Thiên chúa thực sự và do đó họ càng cảm nghiệm thấy mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên chúa? Và chỉ có sự lệ thuộc này mới làm cho họ không lệ thuộc thế gian:
Như vậy đáng ra tinh thần độc lập phải giúp cho mỗi người thực hiện được đầy đủ tự do của mình, bằng cách hiện thể hóa nó trong hoàn cảnh lịch sử riêng tư của mình, thì vì tính cách hàm hồ nói trên, tinh thần độc lập ấy lại dễ biến thành thái độ vô trách nhiệm. Và với thái độ vô trách nhiệm này, mọi hành vi đều mang tính cách liều lĩnh và có khi còn sai hẳn ý định của chủ động nữa.
Như thế là hết tự do, mà chỉ còn lại những vai trò, lúc này ta đóng vai này lúc khác lại đóng vai khác.
Đó là một tinh thần độc lập giả mạo. Nó gồm muôn vàn khía cạnh ví dụ ta có thể nhìn mọi sự với con mắt bàng quan, không cần biết rằng mình nhìn con người, hay nhìn sinh vật hay vật vô linh. Thêm vào đó, ta còn có thể nhìn vạn vật một cách say sưa như một huyền thoại có thể tái diễn một lần nữa. Thế nhưng cái nhìn ấy vẫn còn là một “cái nhìn chết trong đôi mắt linh lợi”, vì nó không phát động được một quyết nghị nào ở những miền sâu, nơi sức sống của ta bắt nguồn cả.
Lúc ấy, dù có vượt qua bất cứ nguy hiểm thù tử nào đi nữa, người ta vẫn chưa sẵn sàng, đứng vững trong tuyệt đối thể được. Nên người ta cứ sống mà không đếm xỉa gì tới mâu thuẫn, tới vô lý; cứ khát vọng vô độ những khoái cảm mới mẻ. Sống giữa những áp lực của thời đại nhưng họ vẫn cố tránh ảnh hưởng chi phối của chúng để ý chí và kinh nghiệm sống của họ được độc lập. Hơn nữa ngay giữa lúc sống trong những áp lực đó, họ vẫn canh phòng khu vực nội tâm, để không áp lực nào áp đảo được nó.
Rồi họ còn coi điểm tối quan trọng của đời họ qua những vẻ bề ngoài của những gì họ đã thấy, hay họ lấy ngôn ngữ của hữu làm chính hữu.
Đó là tinh thần độc lập không dấn thân, nên tất nhiên nó không thể hiểu được chính mình. Nó chỉ nhìn thấy và lấy đó làm phương tiện chuyên chở mình tới sự Hữu. Do đó, sự Hữu bị che phủ đi trong tư tưởng huyền thoại ấy, vì nó là hình thức thi ca trừu tượng.
Nhưng sự Hữu không thể hiện ra với những người chỉ hiến thân để thưởng ngoạn, vì thưởng ngoạn, tuy có thấu suốt hay đơn độc tới đâu cũng không thể đủ. Và ngôn ngữ có được diễn tả quan những luận điệu hùng hồn hay qua những hình ảnh kinh hoàng mấy đi nữa, nếu không thông cảm cũng không thể đủ. Nó vẫn còn là một thứ ngôn ngữ độc tài như kiểu kiến thức khách quan và như những “thánh phán” của các tiên tri.
Đó là những ảo tưởng của những người tưởng rằng đã nắm được hữu. Ảo tưởng ấy có thể thúc đẩy con người cố gắng, nhưng chính khi cố gắng như vậy họ tự mưu sát họ, vì dần dà họ bị tiều tụy đi trong những ảo ảnh của hữu.
Nhưng những ảo ảnh ấy lắm khi có thể ngầm chứa một sức mạnh hoàn cải cả con người. Vì một lúc nào đó con người có thể ngấm ngầm bất mãn, rồi họ thức tỉnh đi tìm kiếm và khám phá ra một cái gì đích đáng hơn. Cái đó chỉ có thể xuất hiện trước mắt hiện sinh và thoát ly được thái độ tai hại, tức là lúc họ chỉ biết nhìn mọi sự một cách bàng quan và chỉ làm những gì họ muốn.
Ngoài ra, độc lập không dấn thân còn thể hiện ra cả trong những lối tư tưởng kỳ cục, ví dụ người ta nói đùa nhau theo những lập luận trái ngược mà không nghĩ đến trách nhiệm gì cả.
Hay tùy theo hoàn cảnh người có thể chấp nhận bất cứ một lập trường nào.
Hay người ta khôn khéo muốn dùng tất cả mọi phương pháp, rồi sống rất xa lạ với khoa học nhưng lại hành động như một nhà khoa học chính cống. Kẻ nào lý luận như vậy là kẻ luôn luôn thay đổi lập trường, họ là thần Protee[1]điển hình không bao giờ sa lưới; không nói được gì cả mà họ tưởng mình công bố những chân lý phi thường. Ở đây chỉ toàn nghe những câu nói bóng bẩy với đầy những linh cảm, hay những lời thì thầm rỉ tai gây xúc cảm, hay một thái độ làm cho phỏng đoán những sự thật huyền bí. Đối với họ, đó là tất cả những gì đầy sức quyến rũ!
Nhưng không thể bàn luận với họ về những gì chính đáng được, mà chỉ có thể ba láp với họ về muôn vàn vấn đề, rồi để mình trôi theo sức quyến rũ của tất cả những gì xem ra ly kỳ.
Nói tóm, ở đây ta chỉ có việc hòa nhịp trôi theo làn sóng cảm xúc huyền ảo không định hướng thôi.
Sau cùng, tinh thần độc lập không dấn thân còn có thể mang lại hình thức một thái độ hoàn toàn lãnh đạm đối với thế gian, khi người ta không còn đủ nghị lực chịu đựng thế gian nữa.
Lúc ấy người ta dám nói rằng: chết cũng không ăn nhằm gì. Thế nào cũng chết, làm gì mà bận tâm lăng xăng cho mất công! Thôi cứ sống, cứ hưởng sung sướng khi sống, cứ chịu đựng sự thiếu thốn của mình, cứ chấp nhận những điều kiện thiên nhiên để cảm nghiệm và để sống như thế sự xảy ra làm sao thì chịu làm vậy. Không phấn đấu nữa, vì phấn đấu cũng mất công lắm!
Nhưng ngoài ra, họ còn thấy mình có khả năng yêu đương, rồi họ chủ trương yêu đương cho nồng nàn tha thiết đi, nhưng sau cùng họ cũng thấy tình yêu sẽ cùng với thời gian biến thái và trôi qua đi mất.
Nói tóm, ở đây cũng không còn gì là tuyệt đối nữa!
Nên người ta mới sống buông thả, không muốn làm gì cũng không muốn là gì đặc biệt cả. Người ta chỉ còn làm những gì bó buộc phải làm và thuận tiện thì làm. Còn những gì khó khăn thì có lẽ chỉ đáng khinh thường. Rồi người ta sẵn sàng công tác làm những gì rất tầm thường hằng ngày.
Với một con người chỉ còn thỏa mãn được với đời sống hiện tại, trước mắt như vậy, và không còn ước mong gì nữa như vậy, thì mọi viễn tượng, mọi chân trời xa xôi trong dĩ vãng cũng như trong tương lai đều như bị đóng kín cả.
Nói tóm, trên đây là những khía cạnh phức tạp của một tinh thần độc lập triết lý giả tạo. Chúng có thể làm mất giá trị tinh thần độc lập chân chính.
Nhưng dầu sao vẫn còn một điều chắc chắn có thể thực hiện được là nếu muốn có được tinh thần độc lập triết lý thực sự thì không những phải nhận thức rõ rệt những khía cạnh hàm hồ vừa nói trên, mà còn phải ý thức được những giới hạn của tinh thần độc lập ấy nữa.
- Những giới hạn của tinh thần độc lập
Không thể có độc lập tuyệt đối được, vì khi suy tư ví dụ cũng bó buộc phải cần đến những trực giác đã sẵn có; hay trên bình diện thực tế ta cũng cần tới người khác và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa ta với họ, mới có thể sống nổi. Rồi với tư cách những con người tự do, ta còn cần tới những con người tự do khác để giữa họ và ta có sự thông cảm vì chỉ có sự thông cảm mới giúp cho ta và cho họ trở thành người có bản lĩnh thực sự. Vì không có tự do cô lập nghĩa là ở đâu có tự do là có sự lệ thuộc áp lực; và một khi áp lực đã hoàn toàn bị đánh bại và mọi trở lực đã dẹp xong thì chính tự do cũng biến mất rồi.
Bởi vậy chúng ta chỉ thực sự độc lập là khi chúng ta đồng thời bị liên hệ mật thiết với thế gian mà không thể gỡ ra được. Vì người ta không thể thực sự độc lập nếu người ta tự rút lui vào bóng tối với chính mình mà thôi. Sống độc lập ở trần gian này là phải xử sự với trần gian này một cách đặc biệt nghĩa là vừa phải thuộc về trần gian vừa không phải thuộc về trần gian; vừa phải ở trong thế gian vừa phải ở ngoài thế gian.
Đó là ý nghĩa chung cho những nguyên tắc sau đây do những nhà tư tưởng lớn đã đặt ra, mặc dầu có những khác biệt:
Như khi Aristippe suy nghĩ về tất cả mọi kinh nghiệm, tất cả mọi loại thứ, tất cả mọi hoàn cảnh hạnh phúc và đau khổ của cuộc đời, rồi ông nói: “Tôi sở hữu nhưng tôi đã bị ràng buộc với những gì tôi sở hữu”. Rồi St.Paul đã nói lên sự cần thiết ta phải sống cuộc đời như sau: “Hãy có của cải như không có của cải vậy”. Trong kinh Thế tôn ca (Bhagavad-Gita) cũng có câu: “Cứ hoạt động mà đừng chờ mong kết quả”. Lão Tử cũng dạy rằng: “Hãy hành động như không hành động”.
Những châm ngôn triết lý bất hủ ấy cần được giải thích và phải được giải thích mãi mãi không cùng.
Nhưng ở đây chúng ta chỉ nên hiểu rằng: chúng diễn tả tinh thần độc lập nội tâm bằng nhiều lối khác nhau; nhưng sự độc lập này đòi ta còn phải lệ thuộc trần gian bằng cách nào đó.
Ngoài ra còn một giới hạn thứ hai cho tinh thần độc lập nữa, nghĩa là nếu người ta chỉ thỏa mãn với độc lập mà thôi thì độc lập không còn nghĩa gì cả.
Có người đã muốn định nghĩa độc lập một cách tiêu cực như bảo rằng: độc lập là không còn sợ hãi gì cả, hay không còn đếm xỉa gì đến việc có thể bị trầm luân hay được cứu rỗi nữa, hay biết giữ thái độ thanh liêm không thiên vị của một quan sát viên bàng quan, hay không lay chuyển trước những tình cảm và bản năng.
Nhưng trong trường hợp ấy cái gì tự xưng là độc lập? Một điểm vô ngã chăng? Hay một “ngã” nói chung mà không đích thực là ai cả?
Tự nó, độc lập không có nội dung cốt yếu. Vì nó không phải là một sức mạnh phát sinh do một bản nhiên tính hay do một khí sinh lực hay do một chủng tộc; nó cũng không phải một ý chí muốn thống trị hay một sự tự tác tạo được chính mình.
Vậy tinh thần độc lập đối với thế trần, tức tinh thần đẻ ra công cuộc suy tư triết lý, không là gì khác hơn là một cách thái con người phải tuyệt đối bám víu lấy cái gì siêu vượt thế gian. Nên một thứ độc lập nào tự phụ không liên hệ với gì cả thì lập tức nó trở thành một thứ độc lập trống rỗng, hình thức: người nào chủ trương thế là người nói mà không nghĩ điều mình nói, họ cũng không hiểu nghĩa điều họ nói, cũng không tham gia vào một ý tưởng nào và cũng không căn cứ trên hiện sinh.
Họ chỉ nhắm mắt làm càn, nhất là khi phủ nhận. Rồi giả như có phải đặt lại vấn đề tất cả thì đối với họ cũng không ăn thua gì cả, vì không có một sức mạnh nào hướng dẫn được họ hay bó buộc họ dấn thân vào những vấn đề họ nêu ra cả.
Ví dụ chính Nietzche đã nêu ra đề tài căn bản sau đây: con người chỉ có tự do là khi không có Thiên chúa; vì nếu Thiên chúa có thì con người không phát triển được, vì ra như con người luôn luôn phải tản mát vào Thiên chúa, như một làn nước tràn đi không còn nghị lực gì cả.
Nhưng phải lật ngược hình ảnh ấy chống đối lại Nietzche và phải nói rằng: chỉ khi nào đăm đăm nhìn Thiên chúa hiện hữu thì con người mới phát triển được, nếu không họ chỉ thụ động trôi theo trào lưu vô định của thế sự và của cuộc đời.
Sau cùng còn một giới hạn thứ ba chi phối độc lập nữa. Đó là bản vị nội địa của thân phận con người.
Chỉ vì là người, chúng ta đã có thể sa lầy vào những con đường lầm lạc khó lòng thoát rồi. Thực vậy thoạt khi vừa ý thức chúng ta đã bị lạc đường rồi. Đó là một sự kiện Kinh thánh đã coi là một tội nguyên tổ theo lối giải thích huyền thoại. Rồi dưới một hình thức hùng vĩ, triết lý Hegel đã giảng nghĩa sự kiện ấy như một tình trạng phóng thể của con người. Kierkegaard thì lại nhìn một cách rùng rợn thấy tính chất “quỷ tặc” trong ta khi ta bị giam hãm trong những đường lầy không bao giờ hy vọng thoát ly. Và một cách thô sơ hơn, các nhà xã hội học lại giải thích sự kiện ấy như chúng ta bị những ý thức hệ chi phối, và các nhà tâm lý học lại giảng nghĩa bằng những mặc cảm trong chúng ta.
Nhưng chúng ta có thể cưỡng lại được với sự giả thác và quên lãng, với những man trá, những u uẩn, những sa lầy và thực hiện được độc lập đích thực không?
St.Paul đã minh chứng rằng: chúng ta không thể thực sự tốt được, vì khi làm điều thiện không thể ta không ý thức rằng ta làm điều thiện. Mà một khi ý thức như vậy là người ta đã kiêu căng tự phụ như đứng trong một vị trí vững vàng rồi.
Kant cũng đã minh chứng rằng: những hành động thiện của chúng ta đều hàm chứa một điều kiện khó thấy được, là chúng ta không muốn những hành động thiện có thể di hại quá cho hạnh phúc của chúng ta; vì vậy mà những hành động ấy không được tinh tuyển.
Đó là sự ác căn bản không tài nào thắng vượt được.
Tóm lại, chính sự độc lập của ta lại cần tới sự nâng đỡ.
Vì thường ta chỉ làm khổ ta; và chúng ta bó buộc phải chỉ hy vọng rằng: tuy không hiện ra rõ rệt trong trần gian, nhưng một cái gì đó tự đáy sâu lòng ta sẽ có thể đến nâng đỡ ta và giải thoát ta khỏi lầm đường, mà ta không hiểu được như thế nào? Nghĩa là ta chỉ thực sự không lệ thuộc là khi ta lệ thuộc Siêu việt thể.
- Kết luận: tinh thần độc lập khả dĩ của thời nay
Làm thế nào mô tả được tinh thần độc lập triết lý khả dĩ của thời nay?
Thưa là không theo hẳn một trường phái triết lý nào cả. Không được coi một chân lý nào đã được công thức hóa như một chân lý duy nhất và loại trừ mọi chân lý khác; phải chủ động tư tưởng của mình.
Không được ngốn triết lý như ngốn một khoa học mà phải đào sâu triết lý theo đà tiến của nó.
Chiến đấu cho chân lý và tinh thần nhân đạo trong một sự thông cảm vô điều kiện.
Phải học tập để tiêu hóa được tất cả những kinh nghiệm của dĩ vãng, biết nghe ngóng người đồng thời và biết cởi mở ra với mọi khả năng.
Đồng thời phải thấu hiểu thân phận cá nhân độc đáo của tôi như lịch sử tính riêng tư của tôi. Đó là nguồn gốc của tôi; những gì tôi đã làm từ khi sinh ra cho đến bây giờ.
Phải chịu trách nhiệm về thời dĩ vãng của tôi, về đời sống hiện tại của tôi và về những gì trời đã ban cho tôi.
Không bao giờ ngừng phát triển qua lịch sử riêng biệt của tôi, để có thể đạt được lịch sử tính của thân phận con người nói chung và do đó trở thành công dân thế giới.
Không nên tin một triết gia nào là vô song cả. Cũng không được muốn trở thành điềm nhiên cương nghị và vô cảm như các triết gia khắc kỷ. Vì mang thân phận làm người là đương nhiên chúng ta sống trong dục vọng, trong lo âu và bó buộc chúng ta phải cảm nghiệm những gì thuộc thế sự, bằng nước mắt cũng như bằng nụ cười.
Có thể chúng ta mới tìm gặp được chính thực chất của ta, tức là vượt trên không chịu làm tôi những tình cảm nhứt thời của ta, những cũng không vì thế mà dập tắt chúng đi được. Vì vậy, ta phải can đảm sống cho ra người và phải cố gắng tận lực thực hiện cho sâu xa được thân phận làm người của chúng ta cho tới khi ta gặp được ở đó tinh thần độc lập của ta với tất cả sức sung mãn ta có thể có.
Do đó bấy giờ ta sẽ có thể chịu đựng đau khổ mà không ca than; có thể thất vọng mà không tuyệt vọng, có thể bị lung lạc mà không bị tiêu diệt. Vì trong ta vẫn còn một tiềm lực gì ấp ủ và nâng đỡ ta. Nó phát triển lên trong ta dưới hình thức một tinh thần tự lập nội tâm.
Nhưng triết lý là phải luôn luôn tập rượt độc lập chứ không phải dứt khoát sở hữu độc lập.
BÀI VII. CÁCH TIẾP CẬN TRIẾT
Một trong những điểm yếu của các triết gia là luôn cho rằng thuyết của mình là đúng hơn cả, mặc dù các vị cũng chẳng khác chi mấy thầy bói xem voi. Vậy phải chăng chúng ta không thể nắm bắt chân lý? Có chứ, mặc dù không ai trong chúng ta quán triệt chân lý. Điều quan trọng không ở chỗ biết trọn vẹn chân lý, mà ở chỗ biết chắc điều mình đang biết, dù là phiến diện, với điều kiện không đồng hóa cái phiến diện ấy với toàn bộ chân lý.
Trong quá trình truy tầm chân lý, đâu là phương cách chính yếu và với những mức độ nào?
- NHỮNG PHƯƠNG CÁCH TIẾP CẬN ĐỐI TƯỢNG TRI THỨC.
Muốn tránh những cái nhìn cực đoan về chân lý, cần phải kiên tâm lần mò qua nhiều giai đoạn để đạt tới tri thức toàn diện. Người ta thường đưa ra những phương cách tri thức sau đây:
- Tri thức bằng giác quan.
Nhiều triết gia đã đánh giá thấp cách biết này, chẳng hạn Platon và các nhà duy tâm. Thật ra đối với mọi người cách biết này được coi là cơ bản. Thánh Thomas đã khẳng định: “Nil in cognitu nisi prius fuerit in sensu” (chẳng có gì nơi trí khôn mà trước đó chưa có nơi giác quan). Dĩ nhiên nó chỉ cung cấp cho ta những yếu tố sơ lược và lu mờ mà thôi. Ví dụ ngửi một mùi hương đang lan tỏa trong không khí, tôi biết có mùi nhưng chưa biết mùi gì. Vì thế nó cần được bổ sung bằng tri giác, tức khả năng tổng hợp kinh nghiệm trong quá khứ về các mùi. Không lạ gì các “bợm nhậu” chỉ cần ngửi qua là biết rượu gì rồi.
- Cách biết bằng ý thức hay lý trí.
Ý thức là khả năng tinh thần, nhờ đó ta nhận ra những tâm trạng của chính mình. Vai trò của ý thức rất quan trọng và mọi môn học phải lấy ý thức làm nền tảng:
Môn tâm lý dùng ý thức để khám phá những nếp gấp nội tâm.
Môn đạo đức dùng ý thức để đánh giá các hành vi về mặt tốt hay xấu.
Môn luận lý dùng ý thức để nhân ra những nguyên lý tối sơ và những tương quan hợp lý giữa những mệnh đề.
Còn môn siêu hình dùng ý thức để khám phá những khuynh hướng mãnh liệt nói con về chân, thiện, mỹ.
- Cách biết bằng cảm thông.
Nơi con người có một khả năng khá linh động để nắm bắt đối tượng, đó là cảm năng (Nên nhớ: cảm năng là để cảm thông chứ không phải để cảm giác). Cảm thông nắm bắt đối tượng qua sự đồng cảm hay thiện cảm. Các triết gia như thánh Augustino, Pascal, Henri Bergson đề cao cách biết này, vì nó đi sâu vào đối tượng để nhìn từ bên trong. Đối tượng của cảm năng bao gồm con người, vạn vật và Thượng Đế.
Cảm năng được sử dụng nhiều nhất trong xã hội học và tôn giáo học:
– Trong xã hội học, cảm năng tìm ra mối tương giao giữa người với người.
– Trong tôn giáo học, cảm năng giúp ta bắc một nhịp cầu giữa ta và Thượng Đế hay một thần linh nào đó. Khổng thuyết gọi đó phối Thiên, còn Lão giáo hội là huyền đồng.
- Cách biết bằng tin tưởng.
Đây là cách biết căn cứ trên chứng từ của tha nhân, cách biết này dĩ nhiên không có giá trị gì đối với khoa học thực nghiệm, vì khoa học thực nghiệm đòi hỏi quan sát thí nghiệm và kiểm chứng. Trong lãnh vực sử học và tôn giáo, cách biết này được coi là quan trọng nhất, vì đối tượng của khoa này vượt tầm nhận thức trực tiếp của ta. Jaspers và Gabriel Marcel đặc biệt đề cao cách biết bằng tin tưởng.
Trên đây là liệt kê những cách biết cần thiết mà bất cứ ai muốn cho việc nghiên cứu và suy tư của mình được quân bình. Tuy nhiên trình độ sử dụng 4 cách biết ấy, không phải ai cũng có như nhau. Do đó tri thức về một đối tượng đôi khi phải dừng lại ở mức độ thường nghiệp hay khoa học, chứ chưa vươn tới tầm mức mà triết học đòi hỏi.
- BA CẤP ĐỘ DẪN TỚI TRI THỨC TRIẾT HỌC
Khi ta có dịp tiếp xúc với giới công nhân trong một ngành nghề nào đó, ta thấy nhiều người rất sành sỏi về mặt thực hành, mặc dù họ chẳng biết lý thuyết bao nhiêu. Chúng ta gọi đó là tri thức thường nghiệm.
Trái lại một bác sĩ mới ra trường rất giỏi về lý thuyết ngành y, mặc dù về phương diện thực hành, khả năng ứng phó khi chữa bệnh không bằng một y tá thâm niên. Kiến thức y khoa của bác sĩ ấy mang tính khoa học, nhưng đòi hỏi thời gian để có sự nhuần nhuyễn thực hành.
Einstein và Openheimer là hai bác sĩ lừng danh của thế kỷ XX đã hủy bỏ rất nhiều tài liệu nghiên cứu về nguyên tử lực của mình, sau biến cố Mỹ thả bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki, vì các ông thấy loài người còn quá hiếu chiến, chưa đủ khả năng nhân bản hóa nguyên tử lực. Muốn nhân bản hóa phải làm gì, nếu không có cái nhìn toàn diện về con người. Nói rõ hơn, phải bắt khoa học tuân phục sự hướng dẫn của triết học.
- Tri thức thường nghiệm
Nơi người dân thường, tri thức thường mang tính thường nghiệm, vì ai cũng biết qua kinh nghiệm hằng ngày:
“Yêu thì củ ấu cũng tròn…”
“Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa”.
Tri thức thường nghiệm thì bất toàn, vì những lý sau đây:
– Nó hướng về hành động cụ thể hơn về chân lý, nghĩa là biết để làm hơn để suy nghĩ. Không cần biết lý do tại sao.
– Nó giải thích các sự và các hiện tượng theo tình cờ, nghĩa là giải thích cũng được, mà không giải thích cũng được, miễn là áp dụng vào đời sống cụ thể thì thôi.
– Sự phê phán của người có óc thường nghiệm thường mang tính chủ quan chứ không dựa trên những lý luận hay thí nghiệm xác đáng. Đành rằng cũng có những kinh nghiệm được coi như kết quả của ngàn năm lịch sử, nên rất phong phú, chẳng hạn các câu ca dao tục ngữ Việt Nam:
“Yêu nhau, cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay”.
Kiến thức thường nghiệm, nếu xét về số lượng, thì rất phong phú, nhưng nghèo nàn về phẩm, vì không được xây dựng thành những hệ thống quy mô.
Như thế, con người với cái nhìn thường nghiệm thường thiếu chiều sâu và chiều rộng, thiếu chiều sâu, vì dừng lại nơi những hiện tượng bên ngoài, chứ mấy khi nỗ lực khám phá những uẩn khúc của tâm hồn; thiếu chiều rộng, vì họ chỉ chú trọng đến những kinh nghiệm lẻ tẻ vô tổ chức, vì thế thiếu tính phổ quát. Mối nguy của kiến thức thường nghiệm trong cuộc sống là vơ đũa cả nắm.
- Tri thức khoa học.
Nhờ tri thức khoa học, người ta thủ đắc được những kiến thức một cách có phương pháp và có hệ thống.
– Có phương pháp, tri thức con người đòi chính xác tối đa. Nhưng để đạt tới trình độ này nhà khoa học phải sử dụng phương pháp kiến hiệu nhất. Nhưng nói đến phương pháp là nói đến định hướng và có tính toán của trí khôn.
– Có hệ thống, nhà khoa học lý tưởng loài người có khả năng thống nhất mọi cái nhìn rời rạc để làm thành một quan niệm duy nhất, trong đó mọi sự kiện và mọi hiện tượng có liên quan với nhau được hỗ trợ để tạo nên những định luật chắc chắn.
Tóm lại, kiến thức khoa học mang ba đặc tính: Phố biết, khách quan và tất yếu.
Phố biến: trong những điều kiện đã được xác định đầy đủ, tất nhiên sự kiện sẽ xảy ra. Ví dụ cứ đun sôi đến một trăm độ, nước sẽ bốc hơi.
Khách quan: chân lý khoa học ở ngoài ta, nó không lệ thuộc vào cái lợi cái thú của ta vì ta thích nước hay không, không thành vấn đề, hễ đun đến 100c là nó bốc hơi.
Tất yếu: chân lý khoa học bắt buộc mọi người phải chấp nhận, ví dụ: lửa nóng, nước đá lạnh.
- Tri thức triết lý
Tri thức triết lý, nếu so sánh với tri thức khoa học, thì trổi vượt về chiều sâu, chiều rộng, chiều dài.
– Về chiều rộng: Đối tượng khoa học chỉ là các hiện tượng, tức những gì cân đo, quan sát được. còn đối tượng của triết lý bao gồm toàn bộ con người và vạn vật hữu hình cũng như vô hình. Ví dụ: hai ông A và B đánh nhau, nhà khoa học chỉ kiểm tra thần kinh, xem có độ mạnh của hòn đó mà ông A ném vào ông B. Còn triết gia thì đi xa hơn, nghĩa là ông cho cử chỉ của ông A một ý nghĩa. Từ đó nhiều câu hỏi được đặt ra: tại sao ông A đánh ông B? Phải chăng vì ông B đã lăng nhục ông A, cho nên ông A đã đánh để bảo vệ danh dự.
Như thế triết học khám phá những ý nghĩa thâm sâu của mỗi hành động, cũng như ý nghĩa của con người.
– Về chiều sâu: Như đã trình bày trên, triết lý không dừng lại nơi hiện tượng, nhưng nó dẫn con người vào trọng tâm của đời sống, ví dụ đặt câu hỏi: Con người tiếp xúc với Thượng Đế như thế nào và tại sao phải tiếp xúc?
– Về chiều dài: Nơi một người có trí khôn lành mạnh và chín mùi, bao lâu còn sống trên cõi đất này, đều có khả năng triết lý. Và có thể nói, triết lý đi liền với sự hiện hữu của nhân loại. Jaspers nói rất đúng: “triết lý sẽ tồn tại mãi mãi bao lâu còn có con người trên mặt đất”.
BÀI VIII. TƯƠNG QUAN TRIẾT
- Triết lý và cuộc sống
Triết là suy tư, là lý thuyết. Đời sống là thực hành, là sống, là sinh hoạt, ăn uống, vui buồn, sướng khổ… Phải sống đã rồi mới làm triết, mới có sức, có giờ để suy tư. Triết giúp suy tư đời sống, giúp sống với một lẽ sống, sống có ý nghĩa.
Triết lý để cập đến mọi vấn đề về con người và đời người. Vì thế thật không ngoa khi ta khẳng định rằng triết lý gắn liền với cuộc sống con người.
Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.
Cuộc đời là một thực tại sống động, muôn mặt, nó thay đổi một cách hết sức linh động nơi mỗi người. Hoàn cảnh sống, tính tình, cấu tạo tâm lý, thể lý của mỗi người rất khác biệt nhau, nên không có cuộc đời nào giống cuộc đời nào cả. Vì thế, mỗi người nhìn cuộc đời một cách khác nhau, có lập trường sống khác nhau.
Nếu triết lý là chính cuộc sống, là những suy tư về cuộc sống, để sống cho khôn ngoan, sáng suốt và hạnh phúc, thì hẳn nhiên triết lý rất đa dạng và không bao giờ chấm hết được, vì không bao giờ người ta khám phá được chân lý toàn diện về cuộc đời cả. Vì thế, có thể định nghĩa cách khác về triết lý: triết lý là một nỗ lực không ngừng của con người đi tìm chân lý của cuộc đời. Nhưng chân lý luôn luôn vượt thoát khỏi ý muốn chiếm đoạt của con người. Khi con người cảm thấy mình nắm chắc được nó trong tay, thì đó chính là lúc con người thấy nó vuột ra khỏi tầm tay của mình. Vì cuộc sống là một cái gì hết sức sống động, luôn luôn thay đổi, nên không thể định thức nó trong một cách diễn tả hay quan niệm nào được. Nghĩa là không bao giờ cầm nắm nó được.
Cuộc đời của ta hay của bất cứ ai không phải là một ý niệm, một thực tại khách quan ở ngoài mình, nhưng cuộc đời luôn luôn ở trong ta và chính là ta. Và ta chỉ có thể là ta trong hiện tại. Cái ta của quá khứ hoàn toàn vuột khỏi tầm nắm bắt của ta, ta không còn làm chủ nó, không sửa đổi được nó, nó không còn là ta nữa. Còn cái ta của tương lai, ta cũng không làm chủ được, ta không thể biết cái ta tương lai sẽ ra sao, ta hoàn toàn mù tịt, nó chưa phải là ta. Ta chỉ làm chủ được ta trong giây phút hiện tại, ta muốn cái ta hiện tại thế nào thì tùy ý ta, ta muốn nó tốt thì nó sẽ tốt, ta chấp nhận cho nó xấu thì nó sẽ xấu.
Cùng nhìn một vấn đề, nhưng người thì lạc quan, kẻ thì bi quan. Cũng như cùng nhìn một ly nước, người nói : «Ly này đã đầy được một nửa», kẻ nói : «Ly này đã cạn mất một nửa». Cả hai đều đúng, nhưng hai câu nói phát sinh hai thái độ khác nhau và đi tới hai kết quả khác nhau, một kết quả tốt và một kết quả xấu.
Cách nhìn của ta về cuộc đời định đoạt số phận của ta. Một cái nhìn ảm đạm về cuộc đời tất nhiên phải làm cho cuộc đời thêm buồn thảm. Nhưng cái nhìn phấn khởi về cuộc đời ắt phải làm cho cuộc đời thêm vui tươi. Ca dao ta có câu: «Người vui thì cảnh cũng vui, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?»
Con người có thể hưởng lợi từ tư tưởng mình, mà cũng có thể là nạn nhân của tư tưởng mình. Vì thế, người khôn ngoan chỉ nghĩ và nuôi những tư tưởng tốt lành, vui tươi, lạc quan. Còn người khờ dại thích nghĩ và nuôi trong lòng những tư tưởng xấu, buồn thảm, bi quan.
Suy tư về cuộc đời, tạo cho mình một quan niệm về cuộc đời, chính là làm triết lý. Do đó, triết lý quan trọng biết bao đối với cuộc sống! Cuộc đời ta hạnh phúc hay đau khổ, đầy ý nghĩa hay vô nghĩa, đầy hữu lý hay toàn là phi lý… tùy thuộc rất nhiều vào triết lý sống của ta.
Có thể tóm gọn:
+ Triết lý huấn luyện con người.
Một nền triết lý chân chính giúp uốn nắn con người và giúp cho nó làm quen với lối suy nghĩ nghiêm túc. Chẳng hạn:
– Biết phân biệt các khía cạnh khác nhau của một vấn đề;
– Biết diễn tả cách chính xác hơn với những lý chứng có sức thuyết phục;
– Biết chú tâm vào những vấn đề của cuộc sống hơn.
+ Triết lý giải thoát con người.
– Triết lý, nhất là triết lý Đông Phương, nhấn mạnh quan niệm giải thoát: giải thoát khỏi vô minh (sự mê lầm). Vì chính mê lầm này làm nảy sinh tham, sân, si. Từ đó con người, theo quan niệm Phật giáo, sẽ bị lẩn quẩn trong vòng tục lụy.
– Triết lý chuẩn bị cho con người một lối đi vào huyền nhiệm, bằng cách nêu rõ đâu là cứu cánh tối hậu của con người, phương cách nào có thể thực hiện việc phối thiên, huyền đồng với Thượng Đế hay đạt tới chân tâm.
- Triết lý và tôn giáo
Triết là suy tư, là thuyết, tìm lý, là lý thuyết… Tôn giáo trước hết là tìm sống với Đấng siêu việt nào đó (Trời, Phật…). Triết có thể là suy tư về tôn giáp, thẩm định giá trị mỗi tôn giáo, cũng như triết có thể và phải thẩm định chính mình. Tôn giáo cũng có một triết thuyết, một quan niệm về vũ trụ, về con người, về Đấng siêu việt, một nhân sinh quan, một vũ trụ quan, ý thức hệ… nhưng tôn giáo đi sâu hơn, cao hơn và xa hơn, tìm sống với Đấng siêu việt.
Khoa học trả lời câu hỏi “như thế nào?” bằng cách giải thích các thành phần cá biệt của thế giới tương quan với nhau ra sao. Còn tôn giáo thì đặt vấn đề “tại sao?” Nó không hỏi “thế giới hoạt động như thế nào?’ mà hỏi rằng “tại sao thế giới lại hiện hữu?”
Ðặc điểm của hai tiếng “tại sao?” là hỏi về ý nghĩa và cứu cánh. Và không người nào có thể trả lời câu hỏi ấy bằng cách chỉ dựa vào các sự kiện kinh nghiệm. John Wisdon (1904-1993), người từng là giáo sư triết tại Ðại học Cambridge, Anh, từ năm 1952 tới 1968 và đồng thời tại các Ðại học Virginia và Oregon, Hoa Kỳ, minh họa tình thế ấy bằng cách kể một câu chuyện như sau:
Có hai nhà thám hiểm cùng đi xuyên qua một khu rừng rậm. Ðột nhiên họ bắt gặp một bãi đất trống giữa rừng, ở đó cỏ dại và hoa mọc chen nhau. Một người nói rằng hoa cỏ đẹp đến thế này tất phải có người làm vườn tới trông nom mảnh đất trống này. Người kia không chấp nhận ý kiến đó, cãi lại. Ðể thấy ai có lý, cả hai nhà thám hiểm chỉ còn biết ngồi xuống và chờ đợi. Nhưng chờ hoài chờ mãi vẫn không thấy xuất hiện người làm vườn nào dù cả hai đã cố sức dùng đủ mọi cách để dò cho ra ông ta.
Một người tiếp tục bác bỏ rằng chẳng có người làm vườn nào cả. Người kia tiếp tục khẳng định rằng phải có người làm vườn nhưng ông ta vô hình và chẳng thể nào dò thấu. Nhưng – và đây là điểm trung tâm của luận cứ – làm thế nào bạn khẳng định có người làm vườn vô hình trong khi hoạt động của ông ta lại để ngỏ cho câu hỏi có ý tưởng rằng hoàn toàn chẳng có người làm vườn nào?
Nhìn chung mà thấy riêng. Trong câu chuyện, cả hai nhà thám hiểm đều có ngay trước mắt họ một chứng cớ độc nhất và có sẵn, thế nhưng mỗi người lại chọn cho mình một cách thông giải khác nhau.
Mỗi người đều có “cái nhìn cá biệt”, và dưới ánh sáng của nó, người ta thông giải vạn vật. Người ta có thể lập luận rằng niềm tin tôn giáo chỉ là “cái nhìn cá biệt” ấy và là một cách sắp xếp những kinh nghiệm của chúng ta về thế giới. Như thế, cái đúng của niềm tin tôn giáo cũng không hơn và chẳng kém chút nào “cái nhìn cá biệt” của bất cứ ai khác, và mọi lập luận đều kết thúc với một câu nói của người nào đó rằng “Ðược thôi, nếu đó là cách mà bạn muốn nhìn nó…”
Trong thực tế, nhiều triết thuyết đã trở thành tôn giáo. Tuy nhiên yếu tố biến một triết thuyết thành tôn giáo không luôn luôn đi đúng với chủ trương nguyên thủy của vị sáng lập triết thuyết. Điều ấy, ta thấy rõ trong trường hợp Đức Phật. Ngài không bao giờ muốn vượt giới hạn của một người đề xuất con người giải thoát. Vậy đâu là yếu tố làm nên tôn giáo?
Trong Cuốn từ điển Tiếng Việt, do NXB Văn Hóa và Thông Tin, Nguyên Văn Đạm đã định nghĩa: “Tôn giáo là sự công nhận một sức mạnh coi là linh thiêng. Nó quyết định một hệ thống tư tưởng của con người về số phận của mình trong và sau cuộc đời hiện tại, do đó quyết định được phần nào hệ thống đạo đức, đồng thời thể hiện bằng những tập quán lễ nghi tỏ thái độ tin tưởng và tôn sùng sức mạnh đó”.
Qua định nghĩa trên, tôn giáo xây dựng trên niềm tin vào một sức mạnh thiêng liêng và được diễn tả bằng những nghi thức tôn thờ. Như thế, tôn giáo ở trong một lãnh vực hoàn toàn khác biệt với triết lý, vì triết lý do nỗ lực của con người đi tìm chân lý với những khả năng thuần nhân loại.
Tuy nhiên con người triết lý cũng là con người tôn giáo. Do đó, triết lý không phải thừa đối với niềm tin tôn giáo, bằng chứng là trong môn thần lý học (théodicée), người ta đã dùng lý luận để giúp con người khám phá ra sự hiện hữu của Đấng Siêu Việt.
Ngoài ra triết lý còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích và hệ thống hóa kiến thức tôn giáo.
- Triết lý và thần học
Triết sử dụng lý trí. Thần học sử dụng triết, nhưng dựa trên đức tin, mặc khải, Lời Chúa, tìm sự thật, đào sâu sự thật về Thiên Chúa mặc khải, soi sáng mãnh liệt hơn khả năng tự nhiên của lý trí tự nhiên, để con người đạt tới cứu cánh cuối cùng của nó là siêu nhiên.
Không ai chối cãi được rằng có sự khác biệt giữa hai bộ môn triết và thần học. Thánh Thomas Aquino đã nêu rõ: “Hai bộ môn thuộc hai loại khác nhau, vì chúng có nguồn sáng riêng, ánh sáng soi dẫn nhà thần học là Đức Tin, còn ánh sáng của triết gia là lý trí”.
Như thế hai bộ môn này, tự bản chất, hoàn toàn đối lập. Thần học không can thiệp vào triết học, vì triết học là lý trí tự nó có giá trị. Nền tảng của triết học là những nguyên lý tối sơ và hiển nhiên (per se evedens). Nó nằm sẵn trong lý trí, trái lại với nguyên lý của thần học là những chân lý mạc khải, rút từ Tin Mừng.
Tuy nhiên giữa triết học và thần học có mối liên hệ chặt chẽ. Vì thế không lạ gì các nhà Kinh viện coi triết học là nô tỳ của thần học (ancilla theologiae).
Đọc qua cuốn giáo lý công giáo, ta thấy có nhiều thuật ngũ triết học, như: bản tính, ngôi vị, bản thể, tùy thể, v.v… Những thuật ngữ ấy được đưa vào giáo lý không do một cá nhân, nhưng do chính công đồng chung của Hội thánh trong các thế kỷ đầu tiên, Nicée, Chalcédoine, Ephèse, Constantinople… Như thế một cách gián tiếp Hội thánh đánh giá cao sự hỗ trợ của triết học cho việc biện hộ, chuyển tải nội dung, giải thích và hệ thống hóa giáo lý Chúa Kitô.
Tương quan giữa triết học và thần học là một đề tài đã được nghiên cứu rộng rãi từ nhiều gốc độ khác nhau, đặc biệt từ các thập niên 1970-1980. Song song với hiện tượng này là sự nở rộ của các trường phái thần học mới như thần học tiên nghiệm, thần học giải thích, thần học phân tích, thần học tương quan liên đới, thần học phụ nữ, thần học giải phóng và các hình thức thần học chính trị, v.v. Một khi thần học gia có nhu cầu cập nhật hóa các vấn đề liên quan đến đời sống đức tin trong bối cảnh xã hội, họ không ngần ngại dùng các phạm trù từ triết hiện sinh, hiện tượng luận, triết ngôn ngữ, cấu trúc luận, triết phân tích, triết phê phán xã hội, v.v. để khai triển các phương pháp thần học thích ứng cho hoàn cảnh của họ.
Cả hai truyền thống triết học và thần học có cùng mối lưu tâm về các vấn đề tối hậu của con người.
Thần học có một lịch sử lâu dài dùng phương pháp suy tư phê phán của triết học để khai triển các chủ đề tôn giáo. Nhưng vì thần học muốn kết nối “đức tin” với “lý trí” cho nên sứ mệnh của nó mang tính nước đôi; thần học dùng phương pháp của “logos” để tìm hiểu và triển khai những gì được mặc khải từ tôn giáo (theos). Như thế sự khác biệt giữa triết học (philo-sophis) và thần học (theo-logos) không phải là tôn giáo nhưng là phương cách mỗi truyền thống tiếp cận các vấn đề tối hậu của tôn giáo.
Thần học và triết học lưu tâm đặc biệt về tôn giáo là vì tôn giáo có khả năng mở rộng chân trời hiểu biết của con người vốn đang sống trong thế giới “bên này” nhưng lại có những cảm thức về những gì thuộc về thế giới “bên kia.” Tôn giáo tồn tại để nhắc nhở chúng ta rằng thực tại không chỉ về cái “là” mà còn cả cái “sẽ là”. Tôn giáo cố gắng bảo trì chiều kích siêu việt của cuộc sống bằng cách đối đầu các vấn đề tối hậu của con người: Làm thế nào sống trong thế giới trần tục này mà con người có thể chạm đến chiều sâu thánh thiêng của hiện hữu? Nên dùng ngôn ngữ nào để nói về Đấng Tối Cao vốn vượt qua mọi giới hạn? Thân phận và ý nghĩa đời người sẽ là gì trong vũ trụ hầu như vô biên và ngẫu nhiên này? Để trả lời các vấn nạn này tôn giáo mời gọi con người dấn thân và phó thác, hành động và dùng ngôn ngữ như thể chúng ta đang “cư ngụ” trong thế giới của niềm tin. Có như thế thì chúng ta mới có thể trải nghiệm và nắm bắt những gì được xem là thánh thiêng và huyền nhiệm.
Triết học Tây Phương cũng muốn tìm hiểu về tính siêu việt và hạnh phúc tối hậu của con người nhưng từ một góc độ khách quan và phê phán hơn. Trong khi tôn giáo đứng trong vòng tròn đức tin thì triết học khởi đầu từ lý trí, vận động khả năng tự nhiên của trí tuệ và các phạm trù để tìm hiểu cách thấu đáo về thực tại. Cả tôn giáo và triết học đều muốn tìm hiểu bản chất và căn nguyên của con người và vũ trụ (cosmos), nhưng tôn giáo theo lộ trình của “mythos” (thần thánh), còn triết học theo tiếng gọi của “logos” (lý lẽ). Sự phân cách này không nhất thiết phải là tất yếu vì ở Đông Phương, Khổng giáo vừa là một tôn giáo (đạo lý) và vừa là một triết lý, nhưng Khổng Tử không nghiên cứu về thần thánh mà về “đạo làm người”. Triết học Tây Phương, khi tra cứu các vấn đề về con người và vũ trụ, không chỉ đặt câu hỏi về “bản chất” của thực tại (siêu hình học) mà còn về khả năng và cách thức con người nhận thức các thực tại đó (tri thức luận), và cả về hạnh phúc con người trong tương quan với thực tại tối hậu (đạo đức học).
Khi sự hiểu biết về niềm tin tôn giáo trở thành hệ thống và có khả năng giải quyết các vấn nạn con người từ lăng kính đức tin thì chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của thần học. Mục đích của thần học là tìm hiểu nội dung của những gì tôn giáo đã đón nhận được qua mặc khải. Do đó, khi nói thần học là “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” (Anselmô: Fides quaerens intellectum) tức là chúng ta thừa nhận rằng thần học có một sứ mệnh nước đôi: vừa dấn thân vào các thực tại tôn giáo, vừa phải dùng các phương pháp suy tư phê phán của triết học. Là một hoạt động tri thức, thần học dùng các phạm trù triết học để minh họa cho tính hợp lý của niềm tin tôn giáo. Thần học cố gắng kết nối niềm tin tôn giáo với bối cảnh xã hội. Khi làm công việc “bắc cầu” này, thần học rút tỉa nội dung từ “mạc khải”, nhưng hình thức thì được vay mượn từ các phạm trù triết học và bối cảnh văn hóa. Là truyền thống học thuật, thần học luôn tận dụng mọi công cụ tri thức để giữ cho nội dung của đức tin luôn được cập nhật và trở thành thực tại sống động chứ không là một “bảo vật” cổ kính trong viện bảo tàng của lịch sử. Khi lối suy tư cũ không còn thích ứng nữa thì phương pháp thần học mới sẽ ra đời. Như thế, thần học luôn mở rộng và hướng về chân trời vô hạn của đức tin và mạc khải.
Cuối cùng, tôn giáo là nỗ lực tiếp cận và nắm bắt thực tại tối hậu của con người, do đó nó có khuynh hướng lôi cuốn triết học và thần học. Nhưng đây là một hành trình không có đoạn kết. Lịch sử cho thấy tôn giáo đã đan quyện triết học và thần học với nhau, tạo thành những cơn lốc tri thức. Một khi các cơn lốc tri thức này lắng dịu xuống thì chúng ta có cơ hội nhận định rõ hơn những yếu tố đã tạo nên sức mạnh của chúng. Nhận thức này có thể giúp chúng ta sẳn sàng đối phó với những thử thách cho tôn giáo trong tương lai.
Tóm lại, triết lý có ít nhất ba vai trò với thần học:
– Vai trò biện hộ và chứng minh
Nếu chúng ta đọc lại các tác phẩm hộ giáo của các giáo phụ và các tiến sỹ công giáo, ta thấy phương pháp lý luận của Aristote được sử dụng một cách rộng rãi.
– Vai trò giải thích
Với phương pháp loại suy, các nhà thần học đã mở lối cho ta khám phá kho tàng mạc khải, Chân lý mạc khải tự bản chấn vượt qua khả năng suy luận của nhân loại. Tuy nhiên căn cứ vào nguyên tắc “qua hình ảnh ta biết thực tại”. Ta có thể qua con người, như hình ảnh của Thiên Chúa, và qua sự vật như dấu vết của Ngài, trí khôn ta có thể hiểu phần nào những thực tại siêu nhiên. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thường xuyên sử dụng phương pháp này để giải thích thực tại khôn dò của nước trời (x. Mt 13).
– Vai trò hệ thống hóa
Theo nghĩa nguyên thủy của chữ khoa học (scientia), điều kiện để trở thành khoa học, thần học phải được trình bày một cách khúc chiết và mạch lạc. Các bộ Tổng luận thần học của thánh Thomas đúng là mẫu mực về vấn đề hệ thống hóa.
Chúng ta cũng không quên nêu lên những hỗ trợ của khoa thần học cho triết học. Sự hỗ trợ này vừa mang tính tiêu cực lẫn tích cực.
Về mặt tiêu cực, thần học phê phán những sai lạc của triết học, khi các triết thuyết được đưa ra đi ngược lại chân lý mạc khải. Nhưng phải chăng như thế thần học cản trở sự sáng tạo của các triết gia? Hẳn không, vì triết lý hàm ẩn ý muốn say tìm chân lý.
Về mặt tích cực, nhờ ánh sáng mạc khải, thần học cống hiến cho triết học những dữ kiện khách quan. Chẳng hạn chân lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa quan trong, những quy tắc luân lý, linh hồn, tự do, v.v… Những dữ kiện khách quan này dĩ nhiên tự mình lý trí cũng có thể khám phá được, nhưng phải lâu hơn và vất vả hơn. Ta có thể sánh vai trò ấy như sao mai đối với hoa tiêu giữa đại dương. Chính hoa tiêu lái chiếc tàu của mình chứ không phải ngôi sao mai, nhưng ngôi sao cũng giúp cho hoa tiêu đưa tàu về đúng bến.
Như vậy: Tương quan giữa triết học và thần học hay giữa đức tin và lý trí là mối tương quan vốn dĩ có sự nâng đỡ, bổ túc cho nhau trong việc kiếm tìm chân lý, nhưng do không phân biệt địa hạt và không tôn trọng tính độc lập tương đối của nhau nên, trong quá khứ và cả hiện tại, đã và đang có những mối xung đột bất dung hòa giữa hai hình thái “tri thức” này. Thật vậy, “đức tin là điều kiện tiên quyết chứ chưa phải là điều kiện đủ của nhận thức. Con người không chỉ tin mà còn suy nghĩ về những điều mình tin. Tin đòi hỏi sự hiểu biết. Đức tin có trước lý trí xét về thời gian, nhưng lý trí cần hơn đức tin về thực chất công việc”. Và “con người là một thực thể có lý trí, nhưng không phải ai và lúc nào cũng giải quyết công việc mình bằng lý trí”. Lý trí con người dù hoàn hảo đến đâu vẫn không thể thấu hiểu hết mọi sự vật hiện tượng trong thế giới hữu hình, chứ chưa nói đến những thực tại vô hình. Như vậy, khước từ đức tin để chỉ vịn vào lý trí, hoặc ngược lại, trong việc tìm biết chân lý, được ví như con chim chỉ có một cánh không thể bay lên được hay như con thuyền chỉ có một mái chèo chỉ xoay vòng tại chỗ. Phải trả lại vị thế ban đầu cho nó. “Niềm tin vượt quá lý trí ở đối tượng; còn lý trí thì vượt quá niềm tin ở phương cách, nên mỗi bên đều có lĩnh vực khác biệt, độc lập. Trong thực tế có những đối tượng cần cho triết học mà không cần cho thần học”
- 4. Triết lý và khoa học
Triết là tìm ý nghĩa cuộc đời, ý nghĩa thuộc diện siêu hình, thuộc diện thuần lý trí. Khoa học, tự nhiên và nhân văn, nghiên cứu những hiện tượng, những sự kiện mà giác quan ý thức tâm lý, thứ giác quan nội tâm, nội giới, có thể quan sát, thí nghiệm được, kiểm tra được do giác quan ngoại giới, giác quan nội giới… Đối tượng của triết, phương pháp của triết, kết luận của triết thì khác đối tượng, phương pháp, kết luận của khoa học. Tuy vậy, hai bên bổ sung cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau để lý luận, tìm tòi, kiểm tra chính xác hơn. Bổ sung nhưng không mâu thuẫn nhau.
a, Triết học và khoa học là hai bộ môn biệt lập nhưng không tương phản [3].
Nếu ta ngược dòng thời gian lịch sử tư tưởng nhân loại, ta thấy một số lớn các nhà hiền triết và triết gia vừa kiêm luôn khoa học gia. Chẳng hạn các vị sáng lập khoa Kinh Dịch ở Trung Quốc, các nhà vật lý và thiên văn như Thales, Anaximène, Démoncrite… ở Hi-lạp. Dĩ nhiên không phải tất cả các nhà bác học đều là triết gia, nhưng các triết gia thực thụ bao giờ cũng là khoa học gia hay thấu đáo các vấn đề khoa học. George Gusdori nói: “Nhà siêu hình cầm chắc trong tay những thành quả của khoa học và thường chính ông cũng là nhà khoa học. Platon và Aristote thông thạo tất cả các ngành khoa học thực nghiệm thời đó” (Traité de la métaphysique. Armand Colin 1956. P.8).
Tuy nhiên trong thực tế chúng ta không thể đồng hóa khoa học và triết học, vì chúng khác nhau về đối tượng và phương pháp lẫn cái nhìn.
Về đối tượng: đối tượng của khoa học là những sự vật (kể cả con người vật lý và sinh lý), còn đối tượng của triết lý là con người hiện sinh tự do.
– Về phương pháp: phương pháp khoa học căn cứ trên những thì ngiệm để rồi xác lập các định luật phổ quát. Trái lại phương pháp triết học phải là sự tiếp cận (apprroche: G. Marcel) theo kiểu hiện tượng luận của Hussert, vì đối tượng của nó là tự do. Tính tự do ấy biến tôi và tha nhân thành những thực tại bí nhiệm.
– Về cái nhìn: cái nhìn của khoa học gia càng ngày càng chuyên biệt hóa, ví dụ cái nhìn của bác sĩ chuyên về tim, về thẩm mỹ v.v… Còn cái nhìn của triết gia vẫn giữ ý nguyên tính toàn diện và tổng quát.
b, Triết lý đóng vai trò nào đối với khoa học?
Công việc của triết gia không đi song hành với công việc của khoa học gia, nhưng hoặc đi trước hoặc đi sau. Nó đi trước để định hướng, đi sau để lượng giá những thành quả của khoa học. Cụ thể trong những điểm sau đây:
– Trước hết nó định vị trí cho từng khoa học trong toàn bộ kiến thức nhân loại.
– Triết học cung cấp cho khoa học những nguyên tắc tối sơ trong tiến trình nghiên cứu của nó. Chẳng hạn nguyên lý nhân quả, đồng nhất, túc lý….
– Triết lý trả lời thay cho khoa học những câu hỏi vượt giới hạn của nó. Ví dụ khoa học vật lý nghiên cứu về thế giới vật chất, nhưng không biết vật chất từ đâu mà có.
Cuối cùng, triết lý nhân bản hóa tất cả những phát minh của khoa học. Nói cách khác triết gia đối chiếu thành quả của khoa học với lọi ích thực sự và toàn diện của con người nói riêng và xã hội nói chung.
BÀI IX. SƠ LƯỢC VỀ CÁC TRIẾT THUYẾT
- CÁC CHỦ NGHĨA
- Chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Là một cách tiếp cập tới hiểu biết về sự tồn tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật, cả hai đều thuộc lớp bản thể học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên.
Chủ nghĩa duy tâm có hai khuynh hướng:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và coi nó là một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể quy định.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận ý thức và tinh thần là thuộc tính thứ nhất (có trước), vật chất là thuộc tính thứ hai (có sau), và coi cơ sở tồn tại không phải là tâm thức con người theo như quan niệm của Chủ nghĩa duy tâm chủ quan mà là một tâm thức nào đó ở bên ngoài thế giới như “tinh thần tuyệt đối”, “lý tính thế giới”, v.v…
Cách tiếp cận tới chủ nghĩa duy tâm của các triết gia phương Tây khác với cách tiếp cận của các nhà tư tưởng phương Đông. Trong nhiều tư tưởng phương Tây, (tuy không có trong tư tưởng của một số triết gia lớn của phương Tây như Platon và Hégel) ý niệm có quan hệ với tri thức trực tiếp của các hình ảnh hoặc quan niệm trí óc chủ quan. Khi đó nó thường được đặt cạnh chủ nghĩa hiện thực mà trong đó sự thực được xem là có sự tồn tại tuyệt đối trước tri thức của ta và độc lập với tri thức của ta. Các nhà duy tâm nhận thức luận có thể khẳng định rằng những thứ duy nhất mà có thể được “biết chắc” một cách trực tiếp là các ý niệm. Trong tư tưởng phương Đông, như được phản ánh trong chủ nghĩa duy tâm Ấn Độ giáo, khái niệm chủ nghĩa duy tâm sử dụng ý nghĩa ý thức, về cốt yếu là ý thức sống động của một Thượng đế có mặt ở mọi nơi, làm nền tảng cho mọi hiện tượng. Một kiểu chủ nghĩa duy tâm châu Á là chủ nghĩa duy tâm Phật giáo.
- Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa duy vật lí (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Chủ trương theo duy vật, đặc biệt phải kể đến là Karl Marx và Lênin.
- Chủ nghĩa hiện thực.
Chủ nghĩa hiện thực đôi khi dùng để chỉ quan điểm trái ngược với chủ nghĩa lý tưởng của thế kỷ XVIII, cho rằng một số sự vật thực sự tồn tại bên ngoài đầu óc con người. Tuy nhiên, theo nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực là học thuyết cho rằng những khái niệm trừu trượng gắn với những danh từ chung toàn cầu như “con người” thực sự tồn tại.
- Chủ nghĩa duy danh.
Trái ngược với chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa duy danh cho rằng những danh từ trừu tượng hoặc toàn cầu chỉ là từ ngữ, chúng biểu thị cho những trạng thái của trí não như ý tưởng, niềm tin hoặc dự định… William xứ Ockham nổi tiếng là người bảo vệ cho chủ nghĩa duy danh, còn được gọi là “khái niệm luận”.
- Chủ nghĩa duy lý.
Chủ nghĩa duy lý nhấn mạnh vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa duy lý cực đoan tìm mọi cách để gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng độc nhất là lý trí. Kiểu lý luận điển hình của chủ nghĩa duy lý bắt đầu bằng những tiên đề không thể chối cãi rành rọt được, để từ đó, bằng các bước logic, diễn dịch ra mọi đối tượng kiến thức có thể có.
Parmenides (sinh năm 510 TCN) được cho là nhà triết học duy lý đầu tiên, người đã tranh luận về việc suy nghĩ thực sự có xảy ra là không thể hồ nghi, mà việc suy nghĩ phải có đối tượng suy nghĩ, do đó, một sự vật phải thật sự tồn tại. Parmenides diễn dịch rằng những gì thật sự tồn tại phải có những tính chất nhất định, thí dụ như, nó không thể bắt đầu tồn tại hoặc chấm dứt tồn tại, nó là một chỉnh thể trọn vẹn, nó giữ nguyên bản chất vĩnh viễn (đúng hơn là tồn tại hoàn toàn bên ngoài thời gian). Zeno (sinh năm 489 TCN) là học trò của Parmenides, đã tranh luận rằng sự vận động là bất khả thi, và chứa đựng sự mâu thuẫn.
Platon (427-347) cũng bị ảnh hưởng bởi Parmenides, nhưng ông đã kết hợp chủ nghĩa duy lý với một dạng của chủ nghĩa hiện thực. Triết gia này đã cất công xem xét sự tồn tại và bản chất của sự vật. Ông kết luận đặc tính của những bản chất sự vật là chúng mang tính chung trên toàn cầu. Bản chất của một con người, của một hình tam giác, của một cái cây có thể áp dụng cho tất cả con người, tất cả hình tam giác và tất cả các loại cây. Platon tranh luận rằng những bản chất này là những hình thái không phụ thuộc vào trí não, rằng con người có thể biết đến chúng bằng lý trí và bằng cách làm ngơ trước những thứ làm phân tâm do giác quan gây ra.
Chủ nghĩa duy lý hiện đại bắt đầu với René Descartes (1596-1690). Nghiền ngẫm về bản chất của trải nghiệm tri giác, cũng như những khám phá khoa học trong sinh lý học và quang học, Descartes (và cả John Locke) đã đi đến quan điểm rằng chúng ta trực tiếp ý thức được ý nghĩ, chứ không phải sự vật. Quan điểm này làm nảy sinh ba vấn đề.
– Có phải các ý nghĩ là bản sao thực thụ của những sự vật, sự việc mà chúng đại diện? Cảm giác không phải là sự tương tác trực tiếp giữa các vật thể và ý thức của ta, mà nó là quá trình sinh lý bao hàm sự đại diện (thí dụ như, một hình ảnh trên võng mạc). Locke nghĩ rằng một “tính chất phụ”, như cảm giác thấy màu xanh lục, không thể nào giống sự sắp xếp các phân tử vật chất sinh ra cảm giác đó, dù là ông cũng nghĩ “những tính chất chính” như hình dạng, kích thước, con số, thực sự có trong các sự vật.
– Ta vẫn chưa rõ làm thế nào những vật thể tự nhiên như bàn, ghế hoặc ngay cả những quá trình sinh lý trong não bộ có thể sản sinh ra những thứ thuộc về tinh thần như ý nghĩ. Điều này là một trong những vướng mắc của một vấn đề triết học nổi tiếng, vấn đề tinh thần-cơ thể.
– Nếu tất cả những gì chúng ta ý thức được chỉ là ý nghĩ, vậy làm sao ta có thể biết được có thứ gì khác tồn tại ngoài ý nghĩ ra?
Descartes nỗ lực giải quyết vấn đề cuối cùng bằng lý luận. Ông đã bắt đầu bằng một nguyên lý mà ông nghĩ là không thể bắt bẻ hiệu quả được: Tôi “biết suy nghĩ”, do đó tôi “tồn tại”. Từ nguyên lý này, Descartes tiến hành xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh về kiến thức (trong đó ông chứng minh sự tồn tại của Thượng đế, bằng một dạng bản thể luận). Quan điểm của ông đã thu hút được những triết gia như Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz và Christian Wolff.
- Chủ nghĩa kinh nghiệm.
Nói chung, chủ nghĩa duy lý thường đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm, một học thuyết dựa trên cơ sở kiến thức về năm giác quan của con người chúng ta. John Locke, một triết gia theo chủ nghĩa kinh nghiệm đầu tiên của Anh quốc, đưa ra quan điểm chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển trong tác phẩm An Essay Concerning Human Understanding vào năm1689, phát triển một dạng tự nhiên chủ nghĩa và kinh nghiệm chủ nghĩa trên cơ sở các nguyên tắc gần như khoa học.
Trong suốt kỷ nguyên này, những ý tưởng tôn giáo đóng vai trò hỗn hợp trong những nỗ lực của triết học thế tục. Bài phản bác nổi tiếng của giám mục Berkeley bài xích Isaac Newton theo cách của chủ nghĩa lý tưởng là một thí dụ về một triết gia trong trào lưu Khai sáng, (một giai đoạn trong lịch sử). Họ đúc kết khá nhiều từ những ý tưởng tôn giáo. Các triết gia tôn giáo có sức ảnh hưởng khác gồm có Blaise Pascal, Joseph Butler và Jonathan Edwards. Những triết gia lớn khác như Jean-Jacques Rousseau và Edmund Burke, đã chọn con đường hơi khác. Việc nhiều triết gia thời bấy giờ chỉ tập trung quan tâm những vấn đề được giới hạn đã dự báo cho sự phân chia ra và chuyên môn hoá nhiều lĩnh vực triết học trong thế kỷ XX.
- Chủ nghĩa hoài nghi.
Chủ nghĩa hoài nghi là một quan điểm triết học nghi vấn khả năng đạt được “bất kì” một loại kiến thức nào. Nó được phổ biến bởi Pyrrho, người tin rằng tất cả mọi thứ đều có thể bị nghi ngờ ngoại trừ “vẻ bề ngoài”. Sextus Empirius (thế kỉ I) miêu tả chủ nghĩa hoài nghi như là một “Khả năng đưa ra một phản đề, trong bất kì cách thức nào, về vẻ ngoài và các đánh giá, và do đó… để đến một trạng thái không còn đánh giá thứ gì nữa và sau đó là sự bình an của tinh thần”. Chủ nghĩa hoài nghi là một thách thức cho chủ nghĩa giáo điều, hay là cho những người nghĩ rằng họ đã tìm ra sự thật.
Sextus chú ý rằng độ tin cậy của sự cảm nhận có thể bị nghi vấn, bởi vì đó là một đặc tính riêng của người cảm nhận. Vẻ bề ngoài của những vật riêng rẽ có thể thay đổi phụ thuộc vào việc nó có xuất hiện cùng với một nhóm hay không: ví dụ, vỏ bào của sừng dê có vẻ như là màu trắng khi được cạo và tách ra riêng, thế nhưng sừng khi còn nguyên vẹn là màu đen. Một thanh bút chì, khi nhìn theo chiều dài, giống như là một que dài; nhưng khi được nhìn từ đầu mũi, nó chỉ giống như một hình tròn.
Chủ nghĩa hoài nghi được hồi sinh trong giai đoạn hiện đại bởi Michel de Montaigne và Blaise Pascal. Tuy nhiên người tiêu biểu nhất và ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa này nhất là David Hume. Hume lý luận rằng chỉ có hai loại lý luận, là có khả năng xảy ra và có luận chứng (probable/demonstrative) (x.“Cái nĩa của Hume”). Cả hai dạng lý luận này đều không thể đưa chúng ta đến niềm tin về sự tồn tại liên tục của một thế giới bên ngoài. Lý luận có luận chứng không thể nào làm điều này, bởi vì chỉ có luận chứng thôi không đủ để thiết lập sự đồng nhất của tự nhiên (chẳng hạn như là nắm bắt được bởi các quy luật và định luật khoa học). Lý luận suông không thể thiết lập được rằng tương lai sẽ giống như quá khứ. Chúng ta có một số niềm tin nhất định về thế giới (ví dụ: Mặt Trời sẽ mọc ngày mai), nhưng những niềm tin này là sản phẩm của thói quen và truyền thống, và không phụ thuộc vào lý luận. Thế nhưng lý luận về khả năng xảy ra, mà mục đích là đưa chúng ta đi từ những điều quan sát được đến những điều không quan sát được, cũng không thể làm được điều này, bởi vì nó cũng phụ thuộc vào tính đồng nhất của tự nhiên, và không thể nào chứng minh mà không thể đi vào lý luận vòng quanh bằng cách viện dẫn sự đồng nhất. Hume kết luận rằng không có lời giải đáp cho các lý luận hoài nghi ngoại trừ việc mặc kệ nó.
Nhiều triết gia đã nghi vấn các lập luận hoài nghi như vậy. Câu hỏi liệu là chúng ta có thể đạt được kiến thức, tức là “kiến thức của thế giới bên ngoài”, là dựa trên dựa trên một tiêu chuẩn cao thế nào mà chúng ta muốn đánh giá. Nếu chúng ta đặt ra một tiêu chuẩn cao, thì chỉ những điều không còn nghi ngờ gì được và những điều không sai lầm mới đưa lại kiến thức. Nếu chúng ta đặt tiêu chuẩn quá thấp, thì chúng ta chấp nhận những điều điên rồ và những ảo tưởng trở thành những “kiến thức” của chúng ta. Tuy nhiên, ngay cả khi những vấn đề này đã được giải quyết, trong mọi trường hợp, chúng ta phải hợp thức hóa các tiêu chuẩn cho việc hợp thức hóa, dẫn đến việc thoái lui vô hạn (được biết đến như là “chủ nghĩa hoài nghi thoái lui”).
- Chủ nghĩa lý tưởng
“Chủ nghĩa lý tưởng” là một học thuyết cho rằng hiện thực là hoàn toàn giới hạn bởi đầu óc của chúng ta. Mặc dù nó phụ thuộc vào quan điểm của René Descartes rằng những gì có trong đầu chúng ta được biết trước những điều được biết thông qua các giác quan, chủ nghĩa lý tưởng bắt đầu chính thức bởi George Berkeley. Berkeley lý luận rằng không có những khác biệt về bản chất giữa các trạng thái tinh thần, như là cảm thấy đau đớn, và những gợi ý từ các giác quan. Không có một thứ gì có thể phân biệt được, ví dụ, giữa độ nóng của một đống lửa, và nỗi đau nó tạo ra cho chúng ta. “Trạng thái” chúng ta cảm nhận chứa trong đó tính chất “được cảm nhận” của nó (esse của nó là percipi), và ý kiến “phổ biến một cách lạ lùng trong loài người” rằng nhà cửa, sông núi và sông suối tồn tại độc lập trước khi bất kì ai cảm đó cảm nhận chúng, là sai.
Các dạng của chủ nghĩa lý tưởng khá phổ biến trong triết học từ thế kỉ XVIII đến những năm đầu của thế kỉ XX. Chủ nghĩa lý tưởng siêu việt (Transcendental Idealism), được ủng hộ bởi Immanuel Kant, cho rằng có những giới hạn về những điều có thể hiểu được nếu như nó không được đem ra đánh giá trong những điều kiện khách quan. Kant viết cuốn Critique of Pure Reason (Chỉ trích về lý luận thuần túy – 1781/1787) trong một cố gắng hòa giải các cách tiếp cận trái ngược nhau của rationalism và empiricism và thiết lập một nền tảng mới để nghiên cứu siêu hình học. Mục đích của Kant với tác phẩm này là nhìn vào những gì chúng ta biết và sau đó xem xét những điều gì phải đúng theo cách mà chúng ta biết. Một ý tưởng chính là có những đặc tính cơ bản của hiện thực thoát khỏi những kiến thức trực tiếp của chúng ta bởi vì những giới hạn tự nhiên của khả năng con người. Phương pháp của Kant là theo mô hình của Euclid, mặc dù cuối cùng thì ông thừa nhận rằng lý luận thuần túy và không đủ để khám phá tất cả sự thật. Các tác phẩm của Kant được tiếp nối trong các tác phẩm của Johann Gottlieb Fichte, Friedrich Schelling và Arthur Schopenhauer.
Triết lý của Kant, được biết đến như là chủ nghĩa lý tưởng siêu việt, sau này được làm cho trừu tượng và tổng quát hóa hơn, trong một phong trào được biết đến như là lý tưởng Đức, một dạng của lý tưởng tuyệt đối. Chủ nghĩa lý tưởng Đức đã trở nên phổ biến với sự xuất bản tác phẩm của G.W.F.Hegél vào năm 1807 mang tựa đề Phenomenology of Spirit (Hiện tượng Tinh thần). Trong tác phẩm này, Hégel khẳng định rằng mục đích của triết học là chỉ ra những mâu thuẫn hiển nhiên trong kinh nghiệm sống của loài người (xảy ra, chẳng hạn như, từ việc nhận thức được rằng mỗi bản thân là vừa là cá nhân chủ động vừa là một người chứng kiến thụ động những gì có trong thế giới) và phải làm xóa bỏ đi những mâu thuẫn đó bằng cách làm cho chúng tương thích lẫn nhau. Quá trình này được gọi là “Hegelian dialectic“. Các triết gia theo truyền thống của Hégel bao gồm Ludwig Andreas Feuerbach, Karl Marx, Friedrich Engels và đôi khi những người Anh theo chủ nghĩa lý tưởng.
Đa số triết lý của thế kỉ XX, bao gồm cả chủ nghĩa hiện tượng lục địa (Continental phenomenology) và trường phái triết học phân tích của Anh-Mỹ, có liên quan đến việc phủ nhận chủ nghĩa lý tưởng, và những giả thuyết của Descartes ẩn dưới đó.
- Chủ nghĩa thực dụng.
Vào cuối thế kỷ XIX, hai triết gia Mỹ, Charles Peirce và William James, đã đồng sáng lập ra học thuyết “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism). Về sau học thuyết này được John Dewey phát triển thành thuyết công cụ (instrumentalism). Những người theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng chân lý của đức tin không nằm trong sự tương hợp của họ với thực tại mà nằm ở sự hữu ích và hiệu quả. Bởi lẽ, sự hữu ích của bất kỳ đức tin nào, trong bất kỳ thời điểm nào, có thể phụ thuộc vào hoàn cảnh. Peirce và James đã khái niệm hóa chân lý cuối cùng là cái chỉ được thiết lập trong tương lai, tức cái được đúc kết bởi tất cả các quan điểm. Những nhà phê bình buộc tội chủ nghĩa thực dụng là sự sai lầm của tư duy, vì cách nghĩ này đã quá tin vào cái gì đó chứng tỏ được là có ích và sự hữu ích này là nền tảng cho chân lý của nó. Những nhà tư tưởng trong tín ngưỡng chủ nghĩa thực dụng gồm có John Dewey, George Santayana và C. I. Lewis. Gần đây, chủ nghĩa thực dụng đã dung nạp thêm những chiều kích mới của Richard Rorty và Hilary Putnam.
- Hiện tượng học.
Edmund Husserl dự định chỉnh đốn lại quan điểm của ông về nền tảng của toán học, và chịu ảnh hưởng của triết gia và nhà tâm lý học Franz Bretano, người ông đã từng học tại Viên, Edmund Husserl bắt đầu đặt nền tảng cho việc tìm hiểu những gì không chỉ là bên dưới những nhận định về toán học mà còn là bên dưới của hệ thống nhận thức nói chung. Trong phần đầu của tác phẩm hai tập của ông, cuốn Logical Investigations (Nghiên cứu về lý luận – 1901), ông đã tấn công vào những luận điểm tâm lý mà ông bị cáo buộc bởi Frege. Trong phần thứ hai, ông bắt đầu phát triển một kĩ thuật về mô tả hiện tượng học, với mục đích chứng minh rằng các đánh giá khách quan thật sự là dựa trên kinh nghiệm nhận thức -tuy không dựa trên kinh nghiệm ban đầu của mỗi cá nhân, nhưng dựa vào các bản chất quan trọng đối với bất kì kinh nghiệm cùng loại đang được xét đến. Ví dụ như ông tìm cách chứng minh rằng tất cả các hành động có ý thức đều có tính chất mang mục đích; nghĩa là chúng mang, hay được hướng về, một nội dung có mục đích. Ông cũng cố gắng đưa ra các bản chất quan trọng của bất cứ một hành động định nghĩa nào. Ông phát triển phương pháp này thêm trong cuốn Ideas (Các ý tưởng) như là hiện tượng học siêu việt, đề nghị rằng chúng ta nên dựa các kinh nghiệm thực tế, và do đó tất cả các ngành của kiến thức loài người, trong một cấu trúc nhận thức của một cá nhân (ego) lý tưởng, siêu việt. Sau đó, ông cố gắng sắp xếp quan điểm siêu việt của ông và thừa nhận là thế giới liên quan lẫn nhau mà trong đó các đối tượng cá nhân tương tác với nhau. Husserl chỉ xuất bản vài cuốn sách trong cuộc đời mình, xem hiện tượng học như là những từ ngữ trừu tượng, nhưng để lại nhiều phân tích cụ thể chưa được xuất bản.
Các tác phẩm của Husserl đã có ảnh hưởng ngay lập tức ở Đức, với sự hình thành các trường phái về hiện tượng học ở München và Göttingen. Hiện tượng học sau này đã nổi tiếng thế giới nhờ vào công của các triết gia như là Martin Heidegger, trước đây là trợ lý nghiên cứu của Husserl, Maurice Merleau-Ponty và Jean-Paul Sartre. Heidegger đã phát triển việc nghiên cứu hiện tượng học để minh họa một hermeneutic. Hermeneutic là một phương pháp diễn đạt sách vở bằng cách lấy ra ý nghĩa của cuốn sách trong hoàn cảnh nó được viết ra. Heidegger đã nhấn mạnh hai yếu tố mới của triết lý hermeneutic: rằng người đọc đem nghĩa của cuốn sách trong thời điểm hiện tại, và rằng các công cụ của hermeneutic có thể được sử dụng để diễn đạt những thứ ngoài sách vở. Các tên tuổi gắn với sự phát triển của hermeneutic bao gồm Hans-Georg Gadamer và Paul Ricoeur. Cũng thông qua các tác phẩm của Heidegger và Sartre, chúng ta thấy tập trung của Husserl trên các kinh nghiệm chủ quan đã ảnh hưởng đến các khía cạnh của chủ nghĩa hiện sinh.
- Chủ nghĩa hiện sinh.
Mặc dù họ đã không sử dụng từ ngữ này, những triết gia của thế kỉ XIX như là Kierkegaard và Friedrich Nietzsche được xem là cha đẻ của thuyết hiện sinh. Tuy nhiên ảnh hưởng của họ đã mở rộng ra hơn là tư tưởng về chủ nghĩa hiện sinh. Những tác phẩm của Kiekegaard nhắm vào hệ thống triết học lý tưởng của Georg Wilhelm Friedrich Hégel mà ông nghĩ rằng đã mặc kệ hoặc loại trừ đời sống chủ quan bên trong nội tâm của con người. Kierkegaard, ngược lại, cho rằng “sự thật là chủ quan”, biện luận rằng điều quan trọng nhất đối với một người thực sự là những câu hỏi liên quan đến những mối quan hệ cá nhân bên trong người đó với sự tồn tại. Đặc biệt là, Kierkegaard, một người theo Công giáo, tin rằng sự thật của niềm tin tôn giáo là một câu hỏi mang tính khách quan, và người ta phải vật lộn với nó một cách nhiệt tình.
Nhiều triết gia ảnh hưởng bởi Kierkegaard cũng là những triết gia tôn giáo. Danh sách của những triết gia theo chủ nghĩa hiện sinh theo Kitô giáo bao gồm Gabriel Marcel, Nicholas Berdyaev, Miguel de Unamuno và Karl Jaspers (mặc dù ông thích nói về điều ông gọi là “niềm tin có tính triết học”). Nhà văn người Do Thái Martin Buber và Lev Shestov cũng được cho là có liên hệ với chủ nghĩa hiện sinh. Đến mức độ nào Martin Heidegger nên được xem là một người theo chủ nghĩa hiện sinh là một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi, như chiến thuật của ông, trong cuốn sách Tồn tại và thời gian, về những giải thích về sự tồn tại của loài người (Dasein), phải được phân tích theo các thể loại của chủ nghĩa hiện sinh (existentiale), đã làm nhiều bình luận viên xem ông như là một nhân vật quan trọng trong phong trào chủ nghĩa hiện sinh.
Chắc chắn là ông đã ảnh hưởng lên Jean-Paul Sartre người mà, cùng với Albert Camus và Simone de Beauvoir, có lẽ đã trở thành những người ủng hộ nổi tiếng nhất cho chủ nghĩa hiện sinh, khai phá nó không chỉ trong những tác phẩm mang tính lý thuyết như magnum opus của ông “Tồn tại và sự trống rỗng” (L’Être et le Néant), mà còn trong các vở kịch và các cuốn tiểu thuyết. Sartre, Camus và De Beauvoir tất cả đều đại diện cho một nhánh vô thần của chủ nghĩa hiện sinh, mà bây giờ có liên hệ gần hơn với những ý tưởng của họ về nausea, contingency, niềm tin xấu và lố bịch hơn là những ý tưởng mang tính tôn giáo angst của Kierkegaard. Tuy nhiên, sự tập trung vào cá nhân con người, chịu trách nhiệm trước vũ trụ cho sự chân thực của sự tồn tại của anh/cô ta, là điểm chung của tất cả các triết gia.
- Triết học phân tích.
Triết học phân tích được phát triển để chỉ trích Hegel và những người theo triết lý của ông. Vào năm 1921, Ludwig Wittgenstein xuất bản cuốn sách Tractatus Logico-Philosophicus, đưa ra một hệ thống logic vững chắc về các vấn đề của ngôn ngữ và triết học. Vào thời gian đó, ông đã hiểu rằng đa số các vấn đề của triết học chỉ là những bài toán đố của ngôn ngữ, mà có thể giải thích được dễ dàng bởi các suy nghĩ rõ ràng. Nhiều năm sau đó ông đã đảo ngược lại nhiều lập trường của ông được đưa ra trong cuốnTractatus, như là được viết ra trong cuốn sách thứ hai của ông Philosophical Investigations – 1953) (Khảo sát về triết học). Investigations đã khuyến khích sự phát triển của “triết học ngôn ngữ bình dân”, được phát triển bởi Gilbert Ryle, J. L. Austin, và một số người khác. Những người theo “triết học bình dân” có cùng cách nhìn với nhiều triết gia xưa hơn (Jeremy Bentham, Ralph Waldo Emerson và John Stuart Mill), và chính những nghiên cứu triết lý đó đã định hình triết học tiếng Anh trong nửa sau của thế kỉ XX. Tuy nhiên, sự rõ ràng của ý nghĩa được hiểu là có tầm quan trọng cao nhất.
- TRIẾT ĐÔNG VÀ TRIẾT TÂY [4]
- Triết học Tây Phương
Truyền thống triết học phương Tây bắt đầu từ những người Hy Lạp và tiếp tục cho đến ngày nay.
Triết học phương Tây đôi khi được phân chia thành nhiều nhánh khác nhau, dựa theo các loại câu hỏi được quan tâm. Các thể loại thường thấy nhất là: siêu hình học, nhận thức luận, luân lý học, và mỹ học. Một số phân nhánh khác gồm logic, triết học tinh thần, triết học ngôn ngữ, triết học chính trị.
Các học giả thường chia triết Tây làm bốn mảng lớn:
– Các triết gia thiên về vũ trụ và hữu thể
– Các triết gia tập chú vào con người như một chủ thể tri thức.
– Các triết gia đánh giá tri thức nhân loại.
– Các triết gia đề cao sự sống và thân phận mong manh dang dở của con người cụ thể.
- Các triết gia thiên về vũ trụ và hữu thể.
Thời khai sinh triết học Hilạp thường được ví như tuổi thơ: điều đập mạnh vào giác quan chú bé lên năm làm thế giới khả giác với bao kỳ diệu ẩn tàng, gây cho chú nhiều thắc mắc.
Thật ra, các nhà hiền triết trước thời Socrates có một cái nhìn sâu sắc hơn nhiều về vũ trụ. Vũ trụ (cosmos) là một toàn thể trật tự bao gồm tất cả mọi thực tại hiện hữu. Trong quan niệm vũ trụ này, ta khám phá ra hai điểm quan trọng:
– Vũ trụ là một toàn thể chứ không phải những cá vật rời rạc.
– Vũ trụ là một trật tự (ordre) được vận hành lớp lang và phát triển cách tiệm tiến từ chỗ thơ sơ đến hoàn hảo.
Đứng trước một vũ trụ như thế, các nhà hiền triết muốn biết đâu là căn nguyên duy nhất và bất biến của nó. Dĩ nhiên câu trả lời của các ngài chưa vươn tới trật tự siêu hình, nó chỉ rút từ kinh nghiệm thường ngày mà thôi:
– Thales gọi yếu tố căn nguyên của cosmos là nước, Anaximène bảo đó là khí, còn Heraclite khẳng định là lửa. Ba yếu tố này cũng chỉ là nguyên tố chất thể mà thôi.
– Trường phái Élée, gồm có Xénophone và Parménide, đưa ra những yếu tố xem ra tinh tế hơn, nhưng cũng không đi xa hơn vì nhất thể (un) của Xénophone và hữu thể (être) của Parménide cũng vẫn nằm trong trật tự hữu hình và đương nhiên mang đặc tính chất thể, chứ chưa mang tính trừu tượng và phổ quát như trong triết học của Aristote sau này. Nói tóm, các nhà hiền triết tiền Socrate chỉ chú tâm khảo sát vũ trụ vật lý. Các học giả thời nay có lý gọi họ là các triết gia vật lý.
Có thể phân chia triết học Hy Lạp cổ đại thành thời kỳ tiền Socrates, thời kỳ Socrates và thời kỳ hậu Aristotle. Thời kỳ tiền Socrates có đặc trưng là các suy đoán siêu hình học, thường dưới hình thức của các mệnh đề tổng quát có ý nghĩa bao hàm lớn, chẳng hạn “Tất cả đều là lửa”, hay “Tất cả đều biến đổi”. Các triết gia tiền Socrates quan trọng gồmcó Thales, Anaximander, Anaximenes,Democritus, Parmenides và Heraclitus. Thời kỳ Socrates được đặt tên để vinh danh nhân vật nổi bật nhất của triết học phương Tây, Socrates, người đã cùng với Plato, học trò của mình, cách mạng hóa triết học qua việc sử dụng phương pháp Socrates, nhờ đó đã phát triển những phương pháp rất tổng quát cho việc định nghĩa, phân tích và tổng hợp. Tuy bản thân Socrates không viết gì, nhưng ảnh hưởng của ông đã được truyền bá qua các tác phẩm của Plato. Các tác phẩm của Plato thường được xem là các tài liệu cơ bản của triết học, vì chúng đã định nghĩa các vấn đề nền tảng của triết học cho các thế hệ sau. Các vấn đề này và các vấn đề khác đã được Aristotle tiếp thụ, ông là người đã học tại Hàn lâm viện (trường của Plato), ông thường bất đồng quan điểm với những gì Plato đã viết. Thời kỳ hậu Aristote đã mở đầu bởi những triết gia như Euclid, Epicurus, Chrysippus, triết gia yếm thế Hipparchia, Pyrrho và Sextus Empiricus.
- Các triết gia tập chú vào con người như chủ thể tri thức.
- Thời trục triết lý Hy lạp với ba ông tổ: Socrates, Platon và Aristote
+ Socrates
Người ta thường gọi đây là thời trụ hay thời hoàng kim của triết học Hylạp, vì Socrates đã làm một cuộc cách mạng tư tưởng. ông mời gọi ta hãy trở về với chính mình, với khẩu hiệu: “Connais – toi, toi – même” bạn hãy tự biết mình! Các triết gia đi trước Socrates như bị cuốn hút và ngây ngất trước vũ trụ lạ lùng. Đối với Socrates, con người cũng là một vũ trụ, mặc dù nhỏ bé. Theo nghĩa này các triết gia sau này sáng tạo ra chữ microcosmos (tiểu vũ trụ). Nơi con người có một điều vượt thế giới vật chất, đó là hồn thiêng. Như thế con người trong một trật tự kỳ diệu hơn. Chính nhờ hồn thiêng, con người có trí khôn. Trí khôn là đèn soi cho cuộc sống con người. Đáng tiếc thay, một khi khả năng phán đoán của lý trí bị lệch lạc, điển hình là nơi nhóm ngụy biện thời Socrates, thì mọi đồi bại sẽ xảy ra trong xã hội.
Về điểm này Socrates rất lạc quan, nên ông chủ trương tri hành đồng nhất: Vì biết sai nên làm sai, trái lại biết đúng thì làm đúng (Phải chăng Đức Phật cũng đồng quan điểm khi ngài nói: nguyên nhân của mọi đau khổ và xấu xa là do vô minh, tức mê lầm). Vậy theo Socrates, khai sáng cho con người biết được lẽ phải, tất nhiên họ làm điều thiện. Ta hãy ghi nhớ quy tắc sau đây của Socrates: “Chỉ cần am tường nhân đức là có thể thành người có đức”.
+ Platon.
Platon như say mê trong cái nhìn lạc quan của thầy mình, nên ông đã đưa trí khôn lên tầng mây. Theo ông, đối tượng của trí khôn không còn là thế giới vật chất nữa, vì nó trôi nổi, biến dịch, nhưng phải xuất phát từ thế giới ý niệm. Ta có thể liên tưởng đến ví dụ cái hang của ông[5]
Nhưng căn cứ vào đâu để xác quyết rằng thế giới ý niệm có thật? Platon đưa ra hai chứng lý:
– Chứng lý luân lý: Đối tượng nhận thức phải bền vững tồn tại, có thể xác lập rõ ràng trong tâm trí bằng những định nghĩa phổ quát. Nhưng nhận thức ấy không thể rút ra từ thế giới vật chất, vì thế giới này, theo Héraclite, luôn biến đổi như nước giữa dòng sông. Vậy bắt buộc phải có một thế giới cao hơn thế giới khả giác, để tri thức có đối tượng mà suy nghĩ.
– Chứng lý siêu nghiệm: Hẳn thật thế giới khả giác có những thiện hảo. Những thiện hảo ấy có nhiều cấp bậc khác nhau. Sự cao thấp về giá trị chứng minh tất cả đều tham dự vào một sự thiện hảo chung. Nguồn thiện hảo ấy không gì khác hơn là thế giới ý niệm. Đó cũng là thuyết về sự tham dự (participation).
Nhưng ở đây nảy ra thắc mắc: Nếu thế giới vật chất này là hình bóng của thế giới ý niệm, thì thế giới ý niệm cũng có sự cá biệt? Platon trả lời: đương nhiên là thế giới ý tưởng cũng đa tạp, tương ứng với những định nghĩa mà ta có trong thế giới khả giác; bằng không, làm sao ta có thể có những tư tưởng mạch lạc và khúc chiết? Đàng khác, nếu ta chối bỏ sự hiện hữu của nhiều ý tưởng trong thế giới ý niệm, ta sẽ hủy bỏ luôn tri thức, vì tri thức là phán đoán, mà phán đoán là so sánh các ý tưởng khác nhau.
Thật ra lý luận như thế, Platon vẫn chưa giải quyết vấn đề bản tính vũ trụ cho đến cuối đời ông. Một đàng kinh nghiệm hằng ngày bắt buộc ông chấp nhận sự hiện hữu của vạn vật, vì ông sử dụng chúng, quan sát chúng: dù ông có suy nghĩ về chúng hay không, chúng luôn hiện hữu. Kẹt một nỗi là ông phải trung thành với định đề triết học mà ông đưa ra: “Suy tưởng và hiện hữu cùng là một” (C’est la meme chose que penser et être). Hay nói cách khác, một vật chỉ hiện hữu khi nó được suy tưởng. vì ông muốn đưa tri thức lên đỉnh cao, ông đành hy sinh sự hiện hữu của thế giới khả giác. Chính thân xác của ông, vì là vật chất, cũng trở thành nhà tù cho hồn thiêng của ông. Trong trường hợp này, cái chết, được coi như một sự giải thoát. Không lạ gì các triết gia thành Athènes đã nhạo cười khi thành Phaolô giảng về mầu nhiệm kẻ chết sống lại.
+ Aristote.
Là đồ đệ rất được Platon quý mến, nhưng về triết lý, Aristote tỏ ra độc lập hoàn hoàn. Hậu thế còn nhắc lại câu nói bất hủ sau đây: “Amicus Platon, magis amica veritas” (Platon là bạn, nhưng chân lý lại thân hơn). Vì yêu chân lý hơn nên Aristote mạnh dạn kéo Platon từ tầng mây thế giới ý niệm xuống đất, bằng cách cho thấy nơi phát xuất của các ý niệm ấy.
Theo ông các ý niệm ấy chẳng qua chỉ là mô thể (fome) của các sự vật hữu hình. Chính trí khôn đã cho chúng đặc tính phổ quát, khi trừu xuất chúng khỏi những điều kiện cá biệt, ví dụ màu sắc, chất lượng và các đặc tính khả giác khác. Người ta đã đúc kết triết thuyết của ông về hữu thể học trong một mệnh đề vắn gọn: “Đối tượng tương ứng của lý trí là yếu tính (essence). Nhưng yếu tính ấy do lý trí trừu xuất từ những vật hữu hình”.
Như thế một đàng ông vẫn duy trì chủ trương của Socrates và Platon là: đối tượng của lý trí phải mang tính phổ quát. Nhưng mặt khác, ông cứu được tính hiện thực cho các sự vật bên ngoài. Nói rõ hơn, Aristote đã nối kết cách hài hòa hai chiều hướng căn bản của lý trí: khuynh hướng thực nghiệm, đề cao nét phong phú của trực giác khả giác, đồng thời khuynh hướng duy lý nhấn mạnh tiềm lực của trí năng.
- b. Các nhóm thừa kế thời Trục [6].
Platon và Aristote như vừa trình bày, là những bậc thầy cự phách, thừa kế Socrates. Hai ông được hậu thế coi như hai dòng sông lớn, từ đó phát xuất bao nhánh nhỏ. Chúng tôi đặc biệt nêu hai nhánh chính sau đây:
+ Nhánh Plotin và thánh Augustino
Thánh Augustino là giáo phụ sáng chói nhất trong Hội thánh Công Giáo. Ngài đã có công đóng góp nhiều sáng kiến trong việc xây dựng khoa thần học Kitô giáo. Nhưng khi trình bày giáo lý đức tin, thánh nhân thường dùng những thuật ngữ triết lý Hilạp, đặc biệt những gợi hứng mang tinh thần của Plotin. Đó là lý do tại sao chúng tôi trình bày học thuyết Plotin song song với cái nhìn triết học của thánh Augustino.
– Plotin (205-270)
Plotin đã lấy lại của Platon sự tách biệt giữa thế giới khả giác và thế giới ý niệm. Nhưng trong tiến trình truy tầm chân lý, Plotin đã đề cao tình yêu. Vì thu nhận tình yêu như yếu tố nền tảng của triết lý, nên triết lý của ông mang tính thần bí (tức nhấn mạnh cảm nghiệm nội tâm).
Về siêu hình học, ông đề xuất bộ ba: Duy nhất thể, thần trí và hồn.
* Duy nhất thể (Unum) là Đấng Tuyệt Hảo (Summum Bonum). Nhưng nếu là sự thiện (bonum) thì tự nó phải trào tràn (difusivum sui).
* Thần trí (logos, mens) xuất phát từ Duy Nhất Thể, nên cũng vĩnh cửu, nhưng kém hơn một bậc vì là hoa quả của nó. Tuy nhiên, thần trí mang tính nhị nguyên, nghĩa là phân biệt chủ thể và đối tượng, tư tưởng và hành động.
* Hồn (Pssychè, anima): hồn có mọi đặc tính của Duy Nhất Thể và Thần trí, nhưng hồn tiếp giáp với thế giới vật chất bằng cách sáng tạo và điều khiển.
Về đạo đức học, Plotin đưa ra một nguyên lý độc đáo liên quan đến cuộc “trở về” với Đấng Duy Nhất. Yếu tố quyết định phải là lòng khao khát (désir). Ông khẳng định: “Mọi hiệu quả tự bản chất bị thúc bách trở về nguồn cội hoàn hảo của mình, vì chính trong nguồn cội ấy, nó tìm được sự hoàn thiện và hạnh phúc”. (Ta có thể lấy hình ảnh: máu chảy về tim hay nhựa cây chảy về rễ). Nhưng để khơi lên nỗi khát trên đây, ông khuyên ta dùng hai phương thế: Tập chú và thanh lọc. Tập chú là tập đi sâu vào tâm hồn, vì “chiều sâu và chiều cao trao hôn cho nhau” (chiều cao mà ông nói đây là sự Thiện Tối Cao). Thanh lọc là phải loại dần những gì thuộc về thể xác và vật chất để đi vào nội tâm.
– Thánh Augustino
Về triết học, thánh Augustino đã lấy lại nhiều điểm của Plotin sau khi ngài đã sửa chữa và rửa tội chúng:
Trước hết thánh nhân đã đồng hóa thế giới khả niệm của Plotin với Ngôi Lời, vì Ngôi Lời đã nguồn phát xuất hiện hữu và chân lý (Ga. 1,3 5). Hạnh phúc nhân loại hệ tại “chiếm hữu” được Ngôi Lời. Ngài là Thiện Hảo tuyệt đối, nơi Ngài không có bóng dáng sự dữ.
Thánh Augustino không chấp nhận thứ bậc trong Tam Linh Vị của Plotin [7]. Nhưng trong tiến trình dẫn con người đến với Đấng Tuyệt Hảo, thánh nhân hoàn toàn đồng ý với Plotin, khi ông này coi nỗi khát là yếu tố quan trọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, tâm hồn con sẽ mãi nao nức cho đến khi được nghỉ yêu trong Ngài” (Confessio 1,1).
Thánh Augustino mô tả ơn hưởng kiến Thiên Chúa như kết quả của một cuộc vươn lên của tâm hồn khao khát, sau khi đã huy động mọi khả năng của tình yêu, ý chí và trí năng. Câu nói sau đây rất ý nghĩa vì nó gói ghém tất cả cái nhìn tổng hợp của Người: “Gaudium de Veritate” (hoan lạc trong chân lý). Niềm vui thuộc về con tim và ý chí, còn chân lý là đối tượng của trí năng.
+ Nhánh thánh Thomas và các nhà kinh viện tiếp nối con đường của Aristote.
Kinh viện được dịch từ chữ Scholastique. Schola (trường) nguyên thủy được dùng để gọi các trung tâm văn hóa Âu Châu. Các trung tâm văn hóa nổi danh nhất vào thời đầu Trung Cổ đều nằm trong các Đan viện Biển Đức, chẳng hạn Fulda (Đức), Monte Cassion và Vivarium (Italia), Eichnauer (Áo), Bec (Pháp)…Các nhà cự phách của Kinh viện như thánh Thomas Aquino cũng đã là môn sinh của các trung tâm văn hóa này. Chính trong các đan viện cổ thời trên đây, tác phẩm của các bậc thầy thuộc văn hóa Hilạp và Roma được sao chép và phổ biến trong toàn Âu Châu. Thánh Anselmo, thuộc dòng Biển Đức, là một trong những người đầu tiên đưa lối suy từ Hilạp vào trong các trường công giáo. Vì thế, các thế hệ tương lai có lý tặng ngài danh hiệu “nhà sáng lập kinh viện”. Tuy nhiên, triết học mang tên kinh viện chỉ phát khởi cách mạnh mẽ khi trường đại học Paris ra đời vào đầu thế kỷ XIII.
– Những nét chung của Kinh viện:
Họ cùng sử dụng một phương pháp và một ngôn ngữ, tức phương pháp lý luận của Aristote, còn ngôn ngữ thì bằng tiếng Latinh.
Họ tiêu hóa kho tàng kiến thức quá khứ, đặc biệt tác phẩm của Aristote và Plotin.
Trong khi sử dụng kho tàng trên, các học giả kinh viện luôn đối chiếu với giáo lý mạc khải bằng cách bổ túc những gì thiếu sót hoặc sửa chữa những gì trái giáo lý đức tin.
* Thánh Thomas Aquino.
Trong phái Kinh viện, có rất nhiều bộ mặt sáng giác như thánh Alberto, Bonaventura, Duns Scot… Nhưng chúng ta không có thì giờ tìm hiểu từng vị, ở đây xin chọn nhân vật tiêu biểu nhất: thánh Thomas Aquino. Hẳn thật chính thánh nhân đã đưa Kinh viện lên đỉnh cao của nó. Vậy đâu là những đóng góp to lớn của thánh “tiến sỹ thiên thần”?
Người ta thường khôi hài rằng: “Thánh Thomas đã rửa tội cho Aristote, như thánh Augustino đã rửa tội cho Plotin”. Nhưng nói rửa tội là nói đến cải biến một học thuyết, chứ không chấp nhận nó như nó có. Riêng về mặt triết lý, thánh Thomas đã chỉnh lại nhiều điểm của Aristote:
Về siêu hình:
Trong khi Aristote chỉ chứng minh sự hiện hữu của một nguyên động lực tiềm tàng trong vũ trụ, thì thánh Thomas xác định đó là Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất và sự sống muôn loài.
Trong khi đón nhận cặp “tiềm thể và hiện thể” (puissance et acte) như nguyên lý biến dịch, thánh nhân phân biệt hai loại hiện thể: hiện thể thuần túy và hiện thể kèm theo tiềm thể.
– Hiện thể thuần túy (acte pur), tức hiện thể không đi sau tiềm thể. Đó là hiện thể của Thượng Đế, vì Ngài hoàn hảo ngay từ đầu.
– Hiện thể kèm theo tiềm thể, đó là tạo vật. Hẳn thật, tạo vật nằm trong dòng biến dịch, nên một trật vừa là hiện thể vừa là tiềm thể, ví dụ cái bàn là hiện thể của gỗ, nhưng là tiềm thể của than hay một đồ vật khác.
Về đạo đức:
Thánh Thomas nhất trí với Aristote rằng mọi người đều đi tìm hạnh phúc; và hạnh phúc sung mãn chính là sự Thiện tuyệt đối. Tuy nhiên thánh Thomas làm sáng tỏ hai điểm:
– Sự thiện tuyệt đối chính là Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mọi sự tốt lành của vạn vật.
– Để đạt được sự Thiện tuyệt hảo, con người phải thể hiện những hành động nhân linh (acte humain), tức những tác động được điều khiển bởi lý trí, ý chí và con tim.
Kết quả của các hành động nhân linh là hạnh phúc, và hạnh phúc tối hậu không gì khác hơn là hưởng kiến Thiên Chúa bằng tình yêu.
- 3. Các triết gia đánh giá tri thức nhân loại
Từ thế kỷ XVII đến XIX được coi như thời phục hưng văn hóa Âu Châu, với sự xuất hiện của khoa học kỹ thuật, nhất là thiên văn học, nhờ những nhà bác học tên tuổi như Copernic, Kèpler và Galilée. Các vị này đã phá đổ hệ thống vũ trụ học Ptolémée (bị coi như lỗi thời) đã từ lâu gắn liền với Kinh viện (theo hệ thống này trái đất là trung tâm vũ trụ).
Các triết gia như Descartes, Kant lóe mắt trước những thành quả ấy, nên mong ước làm sao biến triết học thành một khoa học chính xác.
Để thực hiện cái mộng ấy, các ông bắt tay vào việc đánh giá (phê bình) khả năng tri thức con người, vì nó là khí cụ chính yếu của triết lý. Qua việc phê bình nhận thức, các ông muốn chôn sống khoa triết học cổ thời và khai sinh một nền triết học mới, chúng ta hãy xem các ông có thành công không?
- a. Descartes.
Nói đến Descartes, không ai mà không nhắc đến câu nói nổi tiếng “Cogito ergo sum”, tôi suy tư, vậy là tôi có. Nhưng làm sao ông đi tới được xác quyết đó?
Ông bắt đầu đánh giá tri thức con người, bằng cách cách đề nghị “hoài nghi có phương pháp” (doute méthodique). Ông lần lượt loại bỏ mọi hệ thống triết học đi trước mà ông cho là vô giá trị, và cuối cùng ông đi đến định đề trên đây như nền tảng của triết học.
“Tôi suy tư cho nên tôi hiện hữu”. Nói cách khác tôi là một hữu thể mà tất cả yếu tính là tư tưởng, bản thể ấy không còn một nơi chốn nào hay phụ thuộc vào cái gì vật chất cả” (Discours de la méthode, première partie).
Đây là một xác quyết mang tính duy tâm. Nhưng phải chăng đây cũng là một sự đầu hàng vô điều kiện trước trách nhiệm khám phá vũ trụ vật chất? Trước đây, con người dùng trí khôn để tìm căn nguyên vũ trụ, nhưng nay thất vọng về thành quả mà các triết gia đi trước đã thu lượm được, ông tống khứ ra khỏi vòng nghiên cứu của mình. Từ nay, con người chỉ nắm chắc một điều, đó là trí khôn của nó. Nhưng trí khôn đây chỉ là một tư duy thuần túy (cogito) không có đối tượng với nội dung rõ rệt, như vậy kết cục, cái ego (tôi) của cogito chỉ là một hữu thể thuần túy, chứ không phải cái tôi của con người.
- b. Kant.
Người ta có lý mà khẳng định rằng triết lý của Kant chỉ là khoa phê bình khả năng nhận thức.
Ông không bao giờ phủ nhận sự hiện hữu của vạn vật vì điều đó khoa học thực nghiệm xác quyết rồi. phần ông chỉ hỏi: con người có khả năng nhận thức sự vật tới mức nào? Và đây, ta tóm gọn câu trả lời của ông như sau: lý trí là khả năng của trí khôn, chỉ nhận thức trực tiếp các hiện tượng mà thôi, còn vật tự thể (noumène: na ná như yếu tính trong Kinh viện) vượt tầm hiểu biết của con người.
Con người chỉ có trực giác giác quan về các hiện tượng mà thôi. Mọi cảm giác bị điều động bởi hai điều kiện (phạm trù) tiên thiên, đó là không gian và thời gian. Vì chẳng vật nào ta chứng nghiệm được mà không ở trong không gian và thời gian. Điều ấy, dĩ nhiên ai trong chúng ta cũng hiểu vậy, nhưng có điều này kỳ lạ: đối với Kant, không gian và thời gian không phải là cái gì ở ngoài ta, nhưng là đặc tính của chủ thể ta.
Vậy thì, trí năng đóng vai trò gì trong nhận thức của con người? Trí năng chỉ có nhiệm vụ duy nhất là nối kết các hiện tượng lại thành những tổng hợp. Công việc này được thực hiện với phán đoán. Phán đoán không căn cứ trên các hiện tượng bên ngoài, nhưng căn cứ trên các phạm trù tiên thiên.
Nhưng những phạm trù tiên thiên ấy bởi đâu mà có? Ông phải nại đến Thiên Chúa. Thật là cái vòng lẩn quẩn! Như thế, ta thấy Kant còn đi xa hơn Descartes trong việc tước bỏ khả năng nhận thức con người.
Trong khi, đối với Descartes, cogito còn có khả năng để nhận thức sự vật, còn Kant tước bỏ hoàn toàn khả năng này, vì chỉ trực giác giác quan đã đủ nhận các hiện tượng của sự vật. Nhưng những hiện tượng ấy đã được khoa học thực nghiệm nghiên cứu một cách chắc chắn rồi, cần gì nhờ đến triết học.
Một khi rỗng tuếch nội dung, thì các kiến thức do giác quan cung cấp thật hết sức trôi nổi; và làm sao phán đoán con người tránh được chủ quan, cho dù các phán đoán ấy đã căn cứ vào các phạm trù tiên thiên.
Kết luận cho triệt này, ta phải nói gì về những đóng góp của Descartes và Kant? Ta phải công nhận dụng ý tốt cả hai ông là làm sao để cho những nhận thức chính xác nhất. Muốn vậy, phải đánh giá chính khả năng nhận thức. Thế nhưng với với những phân tích lắt léo tỉ mỉ của mình, các ông càng làm cho vấn đề phức tạp hơn. Các ông đã mở đường cho hai hướng đi cực đoan: duy tâm và duy vật.
Hegel căn cứ vào chân lý cogito của Descartes để khẳng định chỉ có tinh thần (lý trí và nội dung của nó) là thực hữu: tout ce qui est reel est ratione. Nói rõ hơn: một sự vật chỉ thực sự hiện hữu trong tâm trí con người mà thôi. Hegel còn đi xa hơn: nếu tất cả đều là tinh thần, thì tất cả chỉ là bản thể duy nhất (phiếm thần duy tâm).
Về phía duy vật của Feuerbach và Karl Marx, họ cũng phủ nhận sự phân biệt giữa hiện tượng và tự thể, nhưng thay vì nói như Hegel rằng tất cả chỉ là tinh thần, hai ông lại quả quyết: tất cả đều là vật chất; chỉ vật chất mới thực hữu. Nhưng vật chất của K.Marx không phải là một khối u lì, nhưng mang trong mình một năng lực phát triển: phát triển theo quy luật biện chứng. (Hegel cũng cho rằng tinh thần phát triển theo quy luật biện chứng). Như thế đối với Hegel hay K.Marx, Thiên Chúa theo nghĩa Kitô giáo bị loại trừ, vì Thiên Chúa ấy, nếu có, sẽ là thành chắn cản trở sự tự do của con người.
- Các triết thuyết đương đại: hướng về sư sống và thân phận của con người hiện sinh.
Từ đầu thế kỷ XX, người ta chứng kiến một phản ứng mạnh mẽ vừa đối với duy tâm của Hegel, vừa đối với khoa học chủ nghĩa và duy vật chủ nghĩa nơi các triết gia Âu Mỹ. Tại sao thế?
Vì Hegel có tham vọng trình bày triết học như một hệ thống hoàn bị và hợp lý. Còn khoa học chủ nghĩa và duy vật chủ nghĩa quá chú trọng đến sự phát triển vật chất mà quên giá trị tinh thần của con người. Đại diện cho phản ứng này, ta có thể nêu lên các vị như Henri Bergsson và các triết gia hiện sinh.
- a. Henri Bergson giới thiệu thuyết Đà Sống (élan vital).
Đà sống mang tính sáng tạo vì làm nảy sinh các hình thức sống càng ngày càng phức tạp hơn. Để giải thích rõ hơn chủ thuyết này, Henri Bergson so sánh bản năng, trí năng và trực giác với nhau:
Bản năng là một đà sống mang lại cho con vật những phương tiện bẩm sinh hoàn hảo ngay từ đầu, ví dụ con ong thời xưa xây tổ, hút mật làm sao thì con ong hôm nay cũng làm một cách hoàn hảo như nhau.
Trong trường hợp trí năng, đà sống mang lại cho con người một quan năng thực hành, một mưu mẹo biến báo, và chính trong khi thực hành mà lý trí nảy ra những sáng tạo. Tuy nhiên lý trí cũng chỉ hoạt động trong khuông khổ nhất định như phán đoán và suy luận.
Vậy phải có sự can thiệp của một quan năng khác, đó là trực giác. Vì nhờ trực giác ta mới có những hứng khởi và sáng kiến. Trực giác phóng con người khỏi mọi cường tỏa của vật chất để tiến tới một tinh thần tự do thực sự.
- b. Các triết gia hiện sinh.
Trong bài nói về “các nguồn phát sinh triết lý”, chúng ta đã nêu sự đổ vỡ và bất thỏa như nguồn quan trọng và phong phú nhất. Điều ấy, nếu áp dụng cho các triết gia hiện sinh, thì rất đúng. Kierkegaard, ông tổ của thuyết hiện sinh, hẳn thật đã bắt đầu sự nghiệp triết học sau nhiều kinh nghiệm chua cay về cuộc đời dang dở. Các triết gia cổ thời cũng bàn đến con người như là một con người nói chung với một bản tính phổ quát. Bản tính ấy là một kiện tính (đã hoàn chỉnh rồi). Do đó họ có lý do để mà thỏa mãn về khám phá này. Nhưng bản tính ấy nằm trong trừu tượng, chứ làm gì hiện hữu ở trần gian? Triết gia có sứ mệnh hướng dẫn con người bằng xương bằng thịt đang sống trong một hoàn cảnh cụ thể, cũng như đang hướng tới cùng đích tối hậu của mình.
Vậy khi nhìn đến thân phận thực tế của con người, nhất ra sau những cuộc thế chiến với hàng triệu người nằm gục trong vũng máu, làm sao các triết gia hiện sinh không cảm thấy bức xúc. Nỗi bức xúc ấy có thể làm nảy sinh hai thái độ trái ngược nhau;
– Hoặc bất mãn rồi buông xuôi trong một cuộc sống hoàn toàn phóng túng như những con thiêu thân.
– Hoặc máu anh hùng sôi lên, coi những đổ vỡ ấy như những vật kích thích vượt qua và nhắm tới siêu việt.
Tuy nhiên cả hai cùng chung một chủ trương là: mỗi con người, với tư cách hữu thể tự do, phải tự tạo bản thân mình như mình muốn. Hữu thể tự do ấy không thể nào trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học, nhưng chỉ được tìm hiểu bằng cuộc tiếp cận (approche), bằng những cái nhìn trắc diện như Gabriel Marcel và Karl Jaspers đã đề ra. Nói rõ hơn các triết gia hiện sinh đã ứng dụng rộng rãi phương pháp hiện tượng luận của Hussert. Qua phương pháp ấy, con người trở thành đối tượng làm say mê con người? Vì các nhà hiện sinh mở ra trước mắt chúng ta những khả năng kỳ diệu, nhờ đó ta mới nhận chân được giá trị của mình trong hoàn vũ, đồng thời thúc bách mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, một cuộc đời mang tính bi đát, vì nó sẽ mãi mãi dở dang dưới gầm trời này. Như thế, theo các triết gia hiện sinh, ta không bao giờ giải quyết được vấn đề nhân sinh, nhưng chỉ gợi lên những thắc mắc và câu hỏi cho mình và cho những ai nỗ lực tìm câu trả lời cho cuộc sống, khi đặt mình đối diện với Đấng Siêu Việt.
- Triết học Đông Phương.
Chuyển qua Á Châu, ta cảm thấy nhận một sự an hòa, hướng nội và nhất quán hơn. Với “triết học Đông Phương”, chúng ta đặc biệt tìm hiểu triết học Ấn Độ và Trung Quốc, bởi đây được coi là hai cái nôi của nền văn minh nhân loại cổ.
Các nhà triết học Đông Phương chính yếu gồm Kapila, Yajnavalkya, Thích Ca Mâu Ni, Akshapada Gotama, Nagarjuna, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Chu Hy, Hàn Phi Tử, Vương Dương Minh, Dharmakirti, Sankara, Ramanuja, Madhvacharya, Sri Ramakrishna, Narayana Guru, Vivekananda, Aurobindo, Ananda Coomaraswamy và Sarvepalli Radhakrishnan.
Triết học Ấn Độ và Trung Quốc có ba thời kỳ rõ rệt: thời chuẩn bị, thời trục (thời của các nhà hiền triết) và thời nghiền ngãm áp dụng.
Ở Ấn Độ, chúng ta có:
Veda, Upanishad và Phật.
Ở Trung Ưuốc, chúng ta có:
– Ngũ Kinh
– Tứ Thư (Khổng) và Đạo Đức Kinh (Lão).
– Nho gia…
- Triết học Ấn độ.
Triết học Ấn Độ có lẽ có thể so sánh được với triết học phương Tây hơn cả. Ví dụ, trường phái Nyaya của triết học Hindu đã khám phá logic như một số nhà triết học phân tích hiện đại; tương tự, trường phái Carvaka mang đặc điểm vô thần và kinh nghiệm chủ nghĩa. Tuy nhiên, có những sự khác biệt quan trọng, chẳng hạn triết học Ấn Độ cổ nhấn mạnh vào các học thuyết của trường phái hay các kinh sách cổ, thay vì nhấn mạnh vào cá nhân các triết gia, đa số họ khuyết danh hoặc tên tuổi không được lưu truyền lại.
Trong lịch sử của tiểu lục địa Ấn Độ, theo sau sự thiết lập của nền văn hóa Aryan/Vedic, sự phát triển của các tư tưởng triết học và tôn giáo đã phát triển trong một giai đoạn trên 2 thiên niên kỉ đã đưa đến sự phát triển của 6 trường phái triết học Hindu aastika (chính thống). Những trường phái này được xem là đồng nghĩa với Ấn Độ giáo, là một phát triển của Tôn giáo Veda lịch sử.
Triết học Hindu đã làm nên một phần của văn hóa của Nam Á, ảnh hưởng đến tận miền Đông Nam Á.
Nền văn mình xuất hiện trên đất Ấn hơn hai ngàn nghìn năm trước Công nguyên, thuộc về dân tộc Dravidien. Họ đã biết tổ chức một nếp sông xã hội văn mình, chế ngự thiên nhiên bằng dẫn thủy nhập điền.
Nhưng về tư tưởng, họ ở trong thời vật linh (đồng hóa thần với vật). Họ đặc biệt tin vào sự sáng tạo trời đất và họ đề cao sự sống. Bởi thế, họ tôn thờ thần Shiva và Kali (thần cha, thần mẹ) hay Linga (dương vật) biểu tượng nguồn sự sống.
Khoảng từ năm 1700-1500, xảy ra một cuộc xâm lăng của dân Aryan, từ niềm Batư tới. Dân này khôn khéo thu nhập tập tục của người bản địa, nhưng không quên truyền bá cho họ triết lý Veda.
Theo giáo sự Nguyên Đăng Thục, triết lý Veda đã đi từ quan niệm vật linh, kinh qua giai đoạn phiếm thần, rồi mới đạt tới quan niệm triết lý về Đại Ngã (Purusa): “thần Purusa có ngàn đầu, ngàn mắt, ngàn chân. Ngài thâm nhập bằng chính hữu thể của Ngài vào toàn bộ địa giới” (Rig Veda 10,20). Ngài vừa độc nhất vừa đa đạp nơi vạn vật. Sự kiện này được giải thích bằng lý thuyết tam linh vị: Brahmana (Sáng tạo), Vishnu (bảo tồn), Shiva (hủy diệt).
Từ những kết luận của Veda, nảy sinh triết lý Upanishad. Chủ đề chính của triết lý Upanishad là “đi tìm sự đồng nhất trong những dị biệt”. Người ta phải thể hiện cuộc đi tìm này qua thực nghiệm tâm linh, tức thiền định. Qua thực nghiệm tâm linh, con người được giải thoát khỏi tình trạng vô minh, vì vô minh hệở chỗ phân biệt Brahman và Atman (đại ngã và tự ngã).
Đức Phật đến, ngài tự nhận vai trờ cùa một nhà cách mạng tư tưởng. Ngài kịch liệt đả phá chủ trương phân giai cấp của Upanishad. Theo Ngài, con người bình đẳng trong việc giải thoát bản thân. Để khai sáng cho việc giải thoát mang tính nội tâm này, ngài đã tìm ra nguyên do sinh quả báo, đó là DỤC. Xem ra Đức Phật chỉ chú trọng đến thân phận con người tại thế, như thuyết hiện sinh ngày nay. Tuy nhiên, ngài mặc nhiên duy trì chủ thuyết Upanishad về sự đồng nhất giữa các dị biệt. Chính phái Đại thừa sau này sẽ bổ túc những gì Đức Phật chưa nói ra. Họ khẳng định: Mục đích sự giải thoát là tìm lại Chân Như. Nhưng Chân Như là gì nếu không phải Đại Ngã trong Triết Lý Upanishad? Qua đó, chúng ta thấy có sự nhất quán trong triết học siêu hình của Ấn Độ từ Veda đến Đức Phật.
- Triết học Trung Quốc.
Triết học có ảnh hưởng rất sâu rộng đến nền văn minh Trung Hoa, và cả Đông Á. Nhiều trường phái triết học đã được hình thành trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc, và được biết với tên gọi “Bách gia chư tử”. Bốn trào lưu có ảnh hưởng nhất là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia. Sau này, vào thời nhà Đường, Phật giáo từ Ấn Độ cũng trở thành một trào lưu tôn giáo và triết học. (Cũng nên lưu ý là trong tư tưởng phương Đông, không giống với Tây phương, giữa triết học và tôn giáo không có ranh giới rõ ràng.) Giống với triết học Tây phương, triết học Trung Hoa có nhiều tư tưởng phức tạp và đa dạng với nhiều trường phái và đều đề cập đến mọi lĩnh vực và chuyên ngành của triết học.
Khởi thủy nền văn minh Trung Quốc thật sáng chói với các bậc tiên đế anh minh, thông thạo triết lý về vũ trụ cũng như về tương giao giữa Thiên, Địa, Nhân. Vua Phục Hy đã khai sáng việc xây dựng bộ Kinh Dịch, một bộ sách mà ngày nay hiếm người minh giải được hết mọi bí ẩn trong đó.
– Khổng Tử.
Bộ Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Thư, Xuân Thu làm thành pho Ngũ Kinh Trung Quốc. Đức Khổng Tử đã có công san định các bộ sách ấy, đồng thời sáng tác bộ Tứ thư cùng với sự cộng tác của các môn đệ thâm tín của Ngài. Bộ Tứ thư gồm có: Đại học,Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
Qua nội dung của các sách trên, Đức Khổng muốn xác quyết điểm then chốt nào?
Trước hết chúng ta nên ghi nhận rằng: vào thời Xuân Thu, chiến tranh xảy ra hầu như liên miên giữa các nước nằm trên đất Trung Quốc hiện nay. Vì vậy, Đức Khổng Tử đã quyết tâm nhập thế để cứu đời. Theo ngài, nguyên nhân sinh ra mọi tranh chấp và chinh chiến là vì trong xã hội thiếu đạo đức.Vì thế ngài đề cao sự giáo dục. Và việc giáo dục phải được áp dụng trước hết cho cấp lãnh đạo quốc gia. Họ phải là bậc quân tử!
Quân tử là người đã đạt “đại học”. Nhưng đại học là gì? “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thần dân, tại chứ ư chí thiện” (con người của đại học hệ ở chỗ làm cho đức càng ngày càng sáng tỏ; gần dân đạt tới tột đỉnh sự thiện). Nói rõ hơn: quân tử phải là người có nhân đức cá nhân đức hệ ở hai điều: gần dân và hoàn thiện bản thân.
Nhưng ta cũng đừng tưởng đấy chỉ là nghệ thuật sống giữa xã hội mà thôi, vì con người chỉ gần nhau khi họ khám phá ra cái Gốc chung. Nguồn sống và Hạnh phúc chung mà tất cả đều nhắm tới, đó là Thiện, tức Ông Trời: “thành giả, thiên địa chi đạo dã.thành chi giả, nhân chi đạo dã” (Trung Dung XX). Vốn thành, đó là đạo của trời đất. Cố đi tới chỗ thành, đạt đạo của con người.
“Thành” là mục tiêu quân tử nhắm tới, nhưng thành không phải là thành công mà là thành nhân. Vậy đâu là đạo học làm người? Sách Trung Dung trả lời: “Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo” (Mệnh Trời gọi là tính, theo đúng tính gọi là đạo, cố thành đạo thì gọi là giáo). Ta thấy trong câu này, mọi tương quan giữa trời và con người, giữa biết và hành động đều được bàn tới
Xin trích thêm một câu khác nữa:
“Cố Quân tử, bất khả dĩ tu thân
Tư tu thân, bất khả dĩ bất sự thân.
Tư sự thân, bất khả dĩ bất tri thân
Tư tri thân, bất khả dĩ bất tri thiên” (Trung Dung. XX)
(vì thế người quân tử không thể không tu thân; muốn tu thân không thể không hiếu kính cha mẹ; muốn kính hiếu cha mẹ, không thể không biết người; muốn biết người không thể không biết trời).
Ở đây chúng tôi nói đến nền tảng “siêu hình” của mọi sinh hoạt quân tử. Một khi biết Trời là nguồn và mẫu mực của cuộc sống, đồng thời nhận ra “tứ hải giai huynh đệ” thì những qui định tam cương ngũ thường sẽ tuân giữ dễ dàng.
Lão Tử.
Sống trong cùng một hoàn cảnh như Đức Khổng Tử, nhưng phản ứng của Đức Lão Tử xem ra khác biệt. Các học giả cho rằng: Khổng Tử nhập thế, còn Lão Tử xuất thế. Nhưng đúng hơn, cả hai đề có xuất có nhập, khác chăng là ở chỗ nhấn mạnh mà thôi!
Hẳn thật không những Đức Khổng Tử chú tâm huấn luyện con người trị nước, mà cả Đức Lão cũng nhấn mạnh điểm này, Ví dụ:
“Thị dĩ dục thương dân, tất sĩ ngôn hạ chi. Dục tiên dân, tát dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thành nhơn xử thượng nhi dân bất trọng. Xử tiền nhi dân bất hai, thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm” (Đạo Đức Kinh, ch. 66).
(Bởi vậy muốn ở trên dân hẳn phải lấy lời mà hạ mình. Muốn đứng trên dân, hẳn bỏ mình ra đàng sau. Vậy nên thánh nhơn ở trên mà dân không hay, ở trước mà dân không thấy hại. Bởi thế thiên hạ không chán, lại còn đẩy tới trước, bởi không tranh nên thiên hạ không cùng tranh với)
Ở đây bàn ngay đến thuyết vô vi của Lão Tử như điểm căn bản của nhân sinh quan. Qui tắc sống được để ra cho cá nhân cũng như xã hội là giữ sự quân bình. Nhưng làm sao thể hiện được sự quân bình? Phải sống theo Tự Nhiên: “Nhơn pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên) (Đạo Đức Kinh, Ch. 25)
Sống tự nhiên là điều độ, hành động vô cầu.
Sống tự nhiên là không làm trở ngại sự phát triển tự nhiên về mặt luân lý, chế độ, tôn giáo hay giáo dục.
Sống tự nhiên là bỏ lối sống ước lệ của xã hội để trở về với đời sống nội tâm thành thật.
Cuối cùng sống tự nhiên là phát huy những đức tính hồn nhiên.
Trong đời sống xã hội thuyết vô vi được áp dụng quan tam bửu: từ, kiệm, bất cảm vi thiên hạ.
Đến đây chúng ta thấy triết thuyết của Lão Tử về nhân sinh và xã hội thật gần với đạo lý của Đức Khổng Tử, Đấng luôn rao giảng đức ái, lòng vô vị lợi, đức khiêm nhu, sự chừng mực và đời nội tâm. Chỉ tiếc một điều là Lão Tử đề cao nguyên lý siêu việt và tuyệt đối mà ông gọi là Đạo. Phải chăng Đạo tương đương với Đại Ngã của Upanishad và lúc đó Lão Tử chủ chương phiếm thần? Hay Đạo chỉ là vòng thái cực trong Kinh Dịch tức nguyên lý vô cực siêu hình? Trong trường hợp này Lão Tử vẫn giữ được niềm tin truyền thống của Trung Quốc ở một Thượng Đế chí tôn, Đấng sáng tạo vũ trụ và con người.
Dù sao chúng ta thấy cả hai trường phải Khổng và Lão tử có rất nhiều điểm tương đồng, như: cũng nhằm cải tạo xã hộ thời mình. Dĩ nhiên Khổng Tử nhấn mạnh việc tổ chức hành chánh và việc giáo dục bậc quân tử, còn Lão Tử nhấn mạnh việc tu tâm dưỡng tính như bước đầu của một cách mạng toàn diện.
BÀI X. CÁC TRIẾT GIA NÓI GÌ VỀ TUYỆT ĐỐI [8]
Chúng ta bắt đầu từ những triết gia trứ danh bên Đông Phương trước, và bên Tây Phương sau. Bên Đông Phương chúng ta nhớ: Đức Phật, Lão Tử, Khổng Tử.
* Trước Thiên Chúa Giáng Sinh:
- Đức Phật (560…) cho cái tốt tuyệt vời, tuyệt đố là Niết Bàn, và muôn đi tới đó con người phải diệt dục, vì cái dục là nguồn gốc của tất cả mọi đau khổ ở đời, đời này và kiếp sau trong vòng luẩn quẩn của luân hồi. Chỉ khi nào diệt dục hoàn toàn mới tránh khỏi nghiệp quả và đạt dược Niết Bàn.
- Lão Tử (570 – 490) quan niệm cái tốt tuyệt vời, tuyệt đốì là Đạo, Đạo trời là thực thế tuyệt vời, tuyệt đối. Con người phải đi tới đồng nhất với Đạo, quy về Đạo, đồng tâm nhất trí với Đạo, tránh tất cả những gì phân tán sinh lực mình, phân tán cái Đức, tất cả những hành động thế trần của con người hữu vi, hữu dục, để đi đến trạng thái vô vi, an vi hoàn toàn thư thái, nhàn hạ, trạng thái giúp con người hợp nhất, đồng nhất với Đạo, với cái tuyệt vời, tuyệt đối, với cái vô vi, an vi bất tử.
- Khổng Tử (551 – 479) cho cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối là Thái hòa, là Hòa điệu giữa trời, đất và con người. Muôn thế, phải giữ tam cương, ngũ thường, giữ đạo vua tôi, vợ chồng, cha con, theo nhân, nghĩa, lễ. trí, tín, phải tu thân để tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Bên Tây Phương chúng ta nêu lên một số triết gia tên tuổi và có ý nghĩa nhất.
- Socrate (469 – 399) tuy ông không phải là một nhà triết gia chuyên môn, nhưng ông đã vạch rõ con đường cho tất cả các nhà triết, ít nữa là cho Tây Phương. Con đường đó là: hãy tự tìm hiểu mình (connais – toi toi – même). Tự tìm hiểu biết mình, tự xét mình, tự vấn mình, xem có lầm lỗi gì, để sửa mình, để gặp chân lý, để sống theo chân lý, cái chân lý nó nằm trong thâm tâm ta, hiện diện trong ta như một Vị Siêu việt, dạy ta phải làm gì, tránh gì, dầu không có luật lệ bên ngoài. Sống như thế, chúng ta hy vọng sống trường cửu sau khi chết.
Văn hào Pháp, Rousseau nói vồ Socrate như sau: Nếu cuộc sống và cái chết của Đức Giêsu là cuộc sống và cái chét của Thiên Chúa, cuộc sốhg và cái chết của Socrate là của nhà hiền triết.
- Platon (427 -347) là một môn đệ của Socrate và đã chứng kiến giờ phút Socrate chuyện trò với các môn sinh trước khi lìa trần. Đối với Platon, cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối là sự Thiện trường cửu mà chúng ta phải đạt tới, phải chiêm ngưỡng, phải kết hợp vĩnh viễn nhờ nỗ lực thoát ly tất cả những gì là phù du ở đời, những gì là tương đối, là đam mê, cảm giác, thú trần.
- Aristote (384 – 322) môn đệ của Platon, nói cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối của con người là gặp chân lý, là chiêm ngưỡng chân lý trường cửu, và chân lý trường cửu là Thượng Đế. Hạnh phúc của Thượng Đế là chiêm ngưỡng ngay chính mình, chân lý trường cửu.
- Epicure (341 – 270) cho cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối của con người là khoái lạc, khoái lạc vật chất cũng như khoái lạc tâm hồn. Nhưng ông khuyên chỉ tìm những khoái lạc nào vẫn để tâm hồn chúng ta thư thái, an tĩnh, và tránh tất cả những gì quá độ.
- Zénon xứ Cition (336 – 264) người sáng lập phái Stoicien (phái khắc kỷ) nói cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối cho con người là sống theo lý trí, và lý trí là phản ánh của Thiên lý, của Thượng Đế. Sống theo lý trí là nỗ lực sổng đạo dức, tránh dam mê, tất cả những gì làm xáo trộn tâm hồn, sống can trường chịu đựng tất cả đau đón lòng, tất cả đau đớn tâm hồn thể xác, coi tất cả vui buồn sướng khổ không ra gì, không có giá trị gì, luôn luôn giữ thái độ trầm tĩnh, lãnh đạm. Họ nói: Hãy chịu đựng và kiêng cữ, chịu đựng mọi khổ cực và kiêng cữ đam mê. Hãy theo thiên nhiên, thiên nhiên đây là Thiên Lý, là Thượng Đế, Thượng Đế thể hiện trong vũ trụ vạn vật và trong lý trí nội tại nơi con người. Đó là hai châm ngôn giúp con người đạt tới cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối.
- Pyrrhon (365 – 275) cũng quan niệm cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối là sống an tĩnh của tâm hồn. Muôn thế thì đừng quả quyết cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì là có, cái gì là không, vì mình không biết gì là chắc chắn cả, vì tất cả luôn luôn thay đổi, biến chuyển, vì con người là mực thước của tất cả mọi vật. Vì thế nên đừng quả quyết gì cà, để sống trong an tĩnh, sống bên trên cái thật, cái giả, cái tốt, cái xấu theo quan niệm người thường, sống tuyệt đối hoài nghi.
Những triết gia được nhắc lại trên đây đã sống trước Thiên Chúa Giáng Sinh. Với Chúa Giêsu, một kỷ nguyên mới cho triết cũng mở đầu. Không phải là Ngài đến để giảng triết hay cho một triết thuyết mới theo nghĩa thông thường của triết. Ngài có sứ mạng khác, là cứu vớt nhân loại trầm luân, giúp họ trở nên con cái Thiên Chúa và hưởng gia tài Chúa trên cõi trường sinh.
Những lời Chúa Giêsu dạy, Tin mừng Ngài mang cho nhân loại thì không thể không có ánh hưởng đến tư tưởng của các nhà triết. Ngài mang không những cho nhân loại Tin mừng mà còn cho các nhà triết chân lý đầy đủ, toàn diện, tất cả những gì họ tìm mà chưa thấy, cảm mà chưa gặp, những gì vượt hẳn tất cả những gì họ mơ ước từ xưa đến nay và đế mãi mãi: chân lý tuyệt vời, tuyệt đối, an vui tuyệt vời, tuyệt đối, câu trả lời tuyệt vời, tuyệt đối cho tất cả những thắc mắc, những âu lo, những phi lý, những vô lý ở đời. Ngài nói đâu là cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối. Lời dạy của Chúa Giêsu là cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối và là tiêu chuẩn tuyệt đối cho mọi giá trị nói chung, cho mọi triết thuyết nói riêng.
Nếu chúng ta lấy một hình ảnh giúp hiếu ý tưởng trên đây, chúng ta sẽ nói: các triết gia đi tìm chân lý, cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối cho nhân loại, với lý trí, kinh nghiệm của họ, chẳng khác gì như với ánh sáng lập lòe của con đom đóm trong đêm tối. Chúa Giêsu đến, Ngài mang rạng bình minh đến. Ai sẵn sàng mở mắt, mở lòng đón nhận, sẽ gặp, sẽ lãnh cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối: Ai chưa sẵn sàng đón nhận, vì lý do này nọ, thì tiếp tục sử dụng ánh sáng đom đóm và không đi tới đâu, có thể chỉ cảm thấy thêm đen tối, lo âu, tuyệt vọng, cô đơn, phi lý, vô lý…
* Sau Thiên Chúa Giáng Sinh:
- Thánh Augustin (354 – 430) Ta có thể nói tư tưởng của ngài, triết của ngài phát xuất từ kinh nghiệm đời sống bản thân. Trước khi ngài gặp cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối, ngài lang thang tìm trong học vấn, trong hùng biện, trong những vinh quang thế trần, trong khoái cảm thể xác. Nhưng ngài chỉ thấy chán nàn, buồn tởm, lo âu. Gặp Thiên Chúa rồi, ngài mới cảm thấy rõ ngài đã gặp được cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối. Vì thế, triết lý của ngài có thể tóm tắt trong lời than thở dưới đây: “Lạy Chúa, tâm hồn chúng con xao xuyến mãi đến khi nào chúng con được an vui trong Chúa”.
Thánh Augustin đã đi tiền phong, trước Pascal và những triết gia hiện sinh sau này: Kierkegaard, Jaspers, Gabriel, Marcel, Heidegger, Sartre, Camus…
- Thánh Thomas d’Aquin (1225 – 1274) là ông Hoàng của các nhà triết, là thần tượng của thần học. Ngài đã thống nhất sự hiểu biết chân lý căn bàn về Thiên Chúa, về con người, kiến thức siêu nhiên và tự nhiên, văn bản chữa phải là tất cả
Ngài lý luận như Aristote để nói cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối của con người là gặp chân lý, là chiêm ngưỡng chân lý, và chân lý hiện thân là Thượng Đế, là Thiên Chúa. Nhưng nhờ ánh sáng Tin mưng giúp, ngài nói thêm Thượng Đế chính là Thiên Chúa mặc khải với Chúa Giêsu.
- Pascal (1623 – 1662) muôn dẫn con người đến cái tốt tuyệt vời, tuyệt đốt. Ông mời chúng ta nghĩ đến thân phận con người, thân phận một cái vực thẳm mâu thuẫn, đầy vinh và đầy nhục, một cây sậy suy tư, mong manh như hơi khói nhưng cao quý hơn vũ trụ bao la, có nguyện vọng ôm ấp được cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối. Và chỉ có cái tốt đó mới thỏa mãn được nguyện vọng vô bờ bến của con người. Tuy nhiên cái tốt đó, Pascal nói, chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa nhập thể.
- Descartes (1596 – 1650) Với Descartes câu hỏi cản bản của triết: cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối là gi? – trở nên liên đới chặt chẻ với câu hỏi bố túc: con người có thể biết chắc sự thật không? biết chắc chắn cái gì là tốt tuyệt vời, tuyệt đối không? Vấn đề hiểu biết trở thành vấn đề tiên quyết, rất quan trọng cho triết học. Vấn đề trở thành quyết liệt cho một sô” triết gia như Descartes, như Kant và ngâm ngầm ảnh hưởng tất cả những triết gia sau Descartes và Kant. Vì nếu chúng ta không chắc chắn được về lối hiểu biết của ta, thì cái tốt mà ta cho là tuyệt vời, tuyệt đối, thì cũng không chắc gì. Thành thử con người sẽ phải sống trong hoài nghi và tuyệt vọng.
Vì thê Descartes tìm cách chứng minh cho chắc chắn. Lập luận chứng minh ông cho là chắc chắn tuyệt đối, nằm trong câu nói trứ danh: Tôi suy tưởng, tất nhiên là có tôi (Je pense, donc je suis). Đó là một chân lý không ai chồi cãi được kể cả những người hoài nghi. Vì ngay khi họ hoài nghi họ chứng minh chân lý đó. (Mình phải có đã, rồi mới có thể hoài nghi).
Từ chân lý nền móng này, Descartes chứng minh có linh hồn, và linh hồn là tinh thần sẽ di đến Thượng Đế, Thượng Đế hiện diện trong linh hồn và Thượng Đế là cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối. Con người sẽ gặp cái tốt đó bằng tỉnh táo, can trường, làm chủ được tất cả những đam mê gây xáo trộn, mù quáng, ngăn cản không cho thấy chân lý. không cho gặp chân lý.
- Leibniz (1646 – 1716) cùng quan niệm cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối cho con người là Thượng Dế, Thượng Đế đã tạo dựng vũ trụ, vũ trụ thì hoàn hảo vì Thượng Đế là hoàn hảo tuyệt đối và Ngài chỉ có thể tạo dựng cái gì là hoàn hảo. Nếu ờ thọ sinh có khuyết điểm, có những điều dở, điều xấu, điều ác, lý do là vì thọ sinh là tương đôi và con người có tự do.
Vì là tương đối, vì có tự do, con người có thê sa ngã. Nhưng con người cứ theo lương tri, cứ theo tính bản thiện, họ sẽ gặp Thượng Đế.
- Kant (1724 – 1804) nói cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối vẫn là Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì chúng ta không thể biết chắc chắn bằng lý trí, bằng chứng minh lý luận như khi chúng ta lý luận trong khoa học thực nghiệm kiểu vật lý học, thiên văn học. Trong phạm vi khoa học thực nghiêm chúng ta thí nghiệm, quan sát được, về đạo đức, về triết, về tôn giáo chúng ta chỉ tin thôi, tin có Thiên Chúa, có linh hồn bất diệt, tin con ngươi có tự do, lòng tin dựa trên Lương Tâm, Nhiệm vụ. Lương tâm, Nhiệm vụ, bắt buộc tuyệt đối, vô điều kiện. Ta phải hoàn tất nhiệm vụ, ta phải tuân theo Lương tâm một cách tuyệt đối, vô điều kiện, không vì một lợi ích ngoại tại nào, không vì mong thưởng, vì sợ phạt. Lương tâm, Nhiệm vụ chứng minh con người có tự do, có linh hồn bất tử, có Thiên Chúa, vì ngoài niềm tin này, chúng ta không thể giải thích được tính cách tuyệt đối, siêu việt của Lương tâm, của Nhiệm vụ. Kant nói đó là ba “định đề” chúng ta phải tin, phải chấp nhận nhưng không phải là những định lý, chân lý khoa học mà chúng ta chứng minh dược.
Nôm na mà nói, Kant bảo: Anh cứ chu toàn Nhiệm vụ vì là Nhiệm vụ thế thôi, rồi anh sẽ đạt tới cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối.
Kant viết một câu trứ danh: Hai điều làm tôi thán phục : Bầu trời sao sa trên đầu tôi và Lương Tâm trong lòng tôi.
- Hégel (1770 – Ỉ831) nói cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối là Thượng Đế, là Tuyệt đối. Nhưng Thượng Đế, Tuyệt đối. đây không phải như quan niệm của các triết gia khác, của các tôn giáo, của Thiên Chúa giáo nói riêng. Thượng Đế, Tuyệt đối của Hegel không phải là Đấng hằng hữu, vô thủy vô chung, trọn tốt trọn lành từ thuở đời đời và đến đời đời kiếp kiếp.
Hegel quan niệm Thượng Đế, Tuyệt đối như là sự tiến bộ không ngừng của Lý trí, của Tư tưởng, của Biến chuyến, Tiến bộ từ phút Zêrô đến phút chót, qua thời gian, không gian, qua các biến cố lịch sử theo lôi “biện chứng luận” (dialectique du devenir) nhịp bộ ba: Đề, Phản đề, Hợp đề. “Đề” tự dặt rồi “Đề” tự “Phản dề” kế đó “Đề” và “Phản đề” kết thúc bằng “Hợp dề”. Hợp đề này lại trở nên một Đề mới, rồi lại Phản đề…cứ thế mãi. Để hiểu thêm chúng ta lây một ví dụ nôm na: chẳng hạn nụ là Đề, hoa là Phản đề, nó biến đổi cái nụ, rồi hoa biến đổi ra trái, trái thay thế cái hoa, trái là Hợp đề, nó đã kết hợp với cái nụ và cái hoa. Trái có nhân (Đề), nhân biên đổi ra mầm (Phản đề) mầm lại biến đổi ra cây (Hợp đề). Tất cả những biến đối của vũ trụ, của nhân loại của lịch sử từ giây phút khởi sự đến giây phút chung kết, cũng là “Lý trí”, “Tư tưởng” nhập thể, biến chuyển, tiến hóa qua “biện chứng luận” theo nhịp bộ ba (Đề, Phản dề, Hợp đề) để sau cùng, khi lịch sử chấm dứt, khi thời gian kết thúc, khi “biện chứng luận” đạt mục tiêu, lúc đó Thượng đế, Tuyệt dối được thể hiện, Thượng Đế xuất hiện, Thượng Đế, Tuyệt đối là kết quả của Biến đổi, của Tiến hóa, của Lịch sử, của thời gian.
Con người, mỗi cá nhân và cả nhân loại, cố gắng ý thức lấy cái diễn tiến đó của “Lý trí” của “Tư tưởng” và hòa đồng với cái “Lý trí” đó, cái “Tư tưởng” đó. Con người sẽ đạt tới cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối.
Triết Hegel có vẻ trừu tượng nhưng chính triết đó đã đẻ ra thuyết Karl Marx.
- 17. Karl Marx (1818 – 1883) đồng ý với lập luận của Hegei về sự tiến hóa của lịch sử theo “biện chứng luận” nhịp bộ ba: Đề, Phản đề, Hợp đề, nhưng Karl Marx nói động lực thúc đẩy lịch sử không phải là “Lý trí” và Tư tưởng” như Hegel chủ trương mà là kinh tế, vật chất. Kinh tế, vật chất điều khiển tất cả những biến cố của lịch sử, đã đi từ Tư bản bóc lột thợ thuyền đến tranh đấu của thợ thuyền vô sản. Thợ thuyền vô sản phải tiêu diệt tư bản và cuối cùng sẽ thắng. Như thể không còn ai bóc lột ai nữa, thế giới đại đồng sẽ sống trong bình đẳng, khá giả, vui vẻ. Trái đất sẽ là địa đàng, khỏi phải hy vọng hão huyền một thiên dàng nào khác.
Vật chất, kinh tế là phần chính, là dộng lực đóng vai trò chính và được mệnh danh là “hạ tầng cơ cấu kinh tể” (infrastructure économique) còn tư tường, văn hóa, tất cả những sản phẩm của lý trí như kinh tế học, nghệ thuật, khoa học, triết học, tôn giáo., chỉ là con đẻ của vật chất, của kinh tế. Tuy nhiên nếu vật chất, kinh tế là “Đề”, lý trí, tư tưởng, văn hỏa là “Phản đề”, hai bên Rẽ tranh chấp để đi đến “Hợp đề”. Kinh tế, văn hóa nhờ “biện chứng luận” sẽ đi tới chiến thắng chung kết của giới thợ thuyền vô sàn.
- Comte (1798 – 1852) nói nhân loại đã tiến hóa qua ba giai đoạn được mệnh danh là “luật tam trạng”: Khởi đầu nhân loại tin tưởng vào thần thánh để giải thích mọi hiện tượng của vũ trụ (giai đoạn thẩn học) như giải thích bênh tật, tai họa thiên nhiên bằng sự đe phạt của thần thánh. Kế đến con người giải thích bằng những sinh lực bí ẩn của sự vật (giai đoạn siêu hình) như họ giải thích nha phiến làm ngủ vì nó có chất làm ngủ. Sau cùng với thời đại khoa học thực nghiệm bằng nhưng định luật dựa trên quan sát, trên thí nghiệm. Theo ông, con người chỉ biết chắc chắn được những đối tượng của khoa học thực nghiệm, và ngoài lãnh vực khoa học, con người không thể biết gì chắc chắn dược về siêu hình, về tôn giáo.
Điều tốt nhất cho con người là thương yêu nhau, con người thương yêu con người, con người thương yêu nhân loại. Ông muôn lập ra “tôn giáo nhân loại” để thay thế các tôn giáo khác, để tôn sùng Nhân loại thay thế tôn sùng Thiên Chúa.
- Durkheim (1358 – 1917) chịu ảnh hưởng của Comte. Ông quan niệm xã hội đóng vai trò quan trọng hơn là chúng ta tưởng tượng. Xã hội, phần cao quý của xã hội, lương tâm xã hội, ý thức xã hội là cái gì cao siêu, có thật, nó điều khiển con người từ thâm tầm, từ nội tâm, và lương tâm cá nhân chỉ là phản ảnh, là tiếng dội của lương tâm xã hội. Nhờ xã hội, nhờ lương tâm xã hội, nhờ giáo dục của xã hội tư thế hệ này sang thế hệ khác, nhân loại đã tiến hóa văn minh hiện đại và cứ thế tiến mãi. Ngoài xã hội, ngoài ảnh hưởng của xã hội, con người không khác con vật. Và tất cả nhiệm vụ của con người là sống phù hợp với xã hội, sống cho xã hội. Đó là bổn phận, là sứ mạng và cũng là cái gì tốt nhất cho con người. Xưa kia các triết gia nói Thượng đế là cứu cánh, là nguồn gốc của con người. Durkheim nói bây giờ chúng ta lấy xã hội thay thế cho Thượng đế. Xã hội là cứu cánh của con người, là nguồn gốc của con người.
- Freud (185(5 – 1939) cho con người là do tiềm thức vô thức, điều khiển. Động lực mãnh liệt nhất, kể như duy nhất nó thúc đẩy con người sinh họat. (dưới hình thức này hay hình thức khác, kể cả những sinh hoạt văn hóa, xã hội. tôn giáo, chỉ là cái “libido”, cái “dục”, cái tình dục tìm kiếm những khoái cảm nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Nhưng vì ảnh hường xã hội, giáo dục, lễ giáo, tôn giáo, con người phải kiềm chế, phải dồn ép tình dục. Bị kiềm chế, dồn ép, tình dục chìm lặng xuống tiềm thức, vô thức và chờ cơ hội để ngẩng đầu lên, để tìm thỏa mãn, dưới hình thức này nọ, mà ý thức không lưu ý đến hay không lưu ý được. Vì tình dục cũng khôn ngoan xảo quyệt hơn cả ý thức, hơn cả cấm kỵ của xã hội, của giáo dục, của tôn giáo. Nếu không được thỏa mãn cách này hay cách khác, cách nhục hay cách vinh (như khi tình dục được thăng hoa lên tình yêu nhân loại,tình yêu lý tưởng, tình yêu Thiên Chúa), tình dục sẽ gây tai hại trong tâm hồn, tất cả những bệnh tâm thần, những tật khó giải thích đều là do tình dục bị dồn ép gây ra. Có khi nó bùng nổ ra những hành động kỳ quặc không thể giải thích bằng những nguyên do hữu lý. Freud sáng lập “phân tâm học” để khám phá tất cả những bí ẩn trong thâm tâm con người đồng thời cũng để tìm cách giải thích, sửa chữa tất cà những bệnh tâm thần nhờ kỹ thuật phân tâm học.
Theo quan niệm của Freud, dù Freud không nói đen trên trắng, chúng ta đã hiểu đâu là cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối của con người, nếu con người muôn tránh những đồn ép, những đau thương, những bệnh tâm thần…
- Adler (1879 – 1937) môn sinh và cộng sự viên của Freud có quan niệm khác với Freud. Ông cho động lực thúc đẩy con người không phải là tình dục nhưng là ý chí con người muôn vươn mình lên, muôn vượt mọi mặc cảm tự ty, thua kém, để đi đến chiến thắng, đến thành công nhờ nỗ lực khai thác, phát huy tất cả những tài cán sẵn có nơi mình. Vậy cái tốt nhất của con người là hiểu biết những khả năng có thật nơi ta và tìm cách phát huy chúng. Triết thuyết Adler dựa trên ý chí hùng cường ( volonté de Puissance).
- Jung (1875 -1961) quan niệm khác Freud về vô thức. Ông cho vô thức tập thể của nhân loại được tích lũy từ xa xưa đến nay qua các thế hệ. Tất cả các tập thể, các xã hội, các tôn giáo của nhân loại, đều truyền lại trong ý thức và vô thức của nhân loại, của mỗi cá nhân, của mỗi tập thể lớn bé, những hình ảnh lý tưởng, những mẫu gương lý tưởng, những thần tượng để con người tôn sùng và noi theo, như những mẫu gương các vị hiền triết, các vị anh hùng, các vị thánh nhân.
Vậy cái tốt nhất cho con người là tìm biết mình, biết những gương mẫu lý tưởng được truyền lại trong ý thức và trong vô thức của tập thể, của xã hội để cố gắng noi theo.
- Bergson (1859 – 1941) sau khi đã suy tư nhiều năm, đã viết nhiều tác phẩm, đã trình bày nhiều biến chuyển của triết ông, Bergson trong tác phẩm cuối cùng Les deux sources di’ la Morale et de la Religion” (Hai nguồn của Đạo đức và Tôn giáo) nói rằng động lực của Đạo đức và Tôn giáo chính là Tiếng gọi hướng thượng của các hiền nhân, quân tử, anh hùng, thánh nhân, của Thiên Chúa (appel du sàge, du héros, du saint, de Dieu) và cái tốt nhất của con người chính là lắng nghe tiếng gọi hướng thượng đó đế vươn mình lên, để thực hiện sứ mạng con người. Sống như thế là sống theo Đạo đức, Tôn giáo mà Bergson gọi là Đạo đức, Tôn giáo “mờ”, ngược lại với Đạo đức, Tôn giáo đóng”, nặng về hình thức, lệ thuộc quá nhiều những áp lực ngoại giới của xã hội, của truyền thống, của thói quen.
- Kierkegaard (1813 – 1855) người Đan Mạch được coi là vị tiền phong của trào lưu tư tưởng Hiện sinh hiện dại. Ông mở đường cho các triết gia hiện sinh, hữu thần hay vô thần, hữu thần như Jaspers, Gabriel Marcel, vô thần như Heidegger, Sartre, Camus.
Keirkeggaard, sau Pascal, sau thánh Augustin, nhân mạnh khía cạnh đau khổ của con người, của thân phận làm người, sống cô đơn, lo âu, tuyệt vọng, nhưng con người cũng có tự do hoặc để dìm mình trong cái cô đơn, cái lo âu, cái tuyệt vọng đó, hoặc để tìm tự giải thoát và đạt tới cái vui vẻ tuyệt vời, tuyệt đối, nhờ tin tưởng vào Thiên Chúa, như Abraham xưa kia tin tưởng vào Thiên Chúa hơn lúc nào hết khi dẫn đứa con một Isaac, hiến tế trên núi Moria, đứa con duy nhất mà Thiên Chúa đã cho để gây nên một Dân Chúa đông hơn sao trên trời hơn cát dưới biển.
Quan niệm Kierkegaard về điều tốt nhất cho con người chính là sống trong tin tưởng và tình yêu của Thiên Chúa, con người mà Keirkegaard định nghĩa là “Hiện sinh dưới mắt Thiên Chúa” (L’homme est l’existant devant Dieu).
- Heidegger (1889 – 1970) chỉ mới cho biết một phần tư tưởng của ông sưu tầm về Hữu thể.
Nhưng cái phần tư tưởng đó đã đề cập đến con người, đời sống con người. Theo ông, con người là hiện hữu của cô đơn, của lo âu, của tuyệt vọng, của cái chết. Số phận con người là thế. Nhưng phản ứng của ta là phải thế nào? Là chấp nhận cái số’ phận đó với tất cả cái sáng suốt, cái can trường, cái cam tâm của con người biết suy tư, có trách nhiệm và có tự do, phải lãnh trách nhiệm, lãnh tự do để đổi số mệnh, đổi lo âu, cô đơn, tuyệt vọng ra anh dũng, đổi con người tầm thường ra con người thực thụ (être authentique). Đó là cái tốt nhất cho con người, mặc dầu con người sau cùng cũng phải chết, và cái chết, vì Heidegger không tin có Thiên Chúa, nói lên đời sống, chung quy là vô lý, là phi lý.
- Nietzsche (1844 – 1900) ảnh hưởng lớn trên những tư tưởng gia, những thế hệ đề cao “bạo lực” và oai hùng, đề cao con người siêu nhân (le surhomme).
Theo ông con người siêu nhân đó phải đạp đổ tất cả những luật lệ của đạo đức cổ truyền, đạo đức thông thường, đạo đức qua truyền thống từ Socrate đến Chúa Giêsu Kitô. Ông nói thứ đạo dức đó chỉ là đạo đức của kẻ hèn yếu, của đàn cừu, của đám nô lệ chỉ biết, tuân lệnh cấp trên, ngoại giới, chỉ biết chịu đựng, của kẻ bạc nhược, không dám vươn mình lên oai hùng siêu nhân. Ông nói phải đi xa hơn, phải lên cao hơn là thiện và ác cố truyền (Pardela de bien et le mal) phải có ý chí hùng cường (Volonté de puissance) phải nghe tiếng gọi lên siêu nhân (Ainsi parlait Zarathoustra) phải mong mỏi một thế hệ “vương bá” thay thế cho thế hệ “nô lệ”. Cái tốt nhất của con người là ở chố đó. Hitler và quốc xã Đức và tất cả những đầu óc già trẻ có chút hào khí nhưng chưa tìm ra Chân Lý đều chịu ảnh hưởng sâu xa của Nietzsche.
Mười năm trước khi chết, ông đã mất trí khôn và không bao giờ tỉnh lại.
- Sartre (1905 – 1980) quan niệm hiện sinh của Sartre đã được phổ biến rất nhiều. Ông coi đời sống là nôn mửa, là phi lý, tha nhân là hỏa ngục. Ông chịu ảnh hưởng sâu rộng của Heidegger.
Tuy vậy con người vẫn có tự do, sẽ lãnh tất cả tự do của mình trong sáng suốt, trong lo âu để chấp nhận thấy cả những trách nhiệm của con người, của định mệnh, để tự tạo, tự thể hiền.
- Camus (1919 – I960) cũng cho đời là phi lý, đầy đau thương, đầy vô lý. Nhưng con người phải chỗi dậy, phải phản kháng lại số mệnh, phải sống anh dũng, phải lãnh tất cả trách nhiệm của con người, phải giúp tha nhân, phải xây lại một thế giới huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn.
- Jaspers (1889 – 1967) nói con người là hiện sinh có giới hạn, có cao vọng muôn hiểu biết tất cả bí ẩn của con người, của định mệnh con người, nhưng không thể nào hiểu biết tất cả được. Tuy vậy con người vẫn phải đi tới giới hạn cuối cùng của mình là đau khổ, là cái chết. Nhưng cũng chính đó là cái thất bại cuối cùng của con người. Điều kỳ diệu là cái thất bại nầy, nếu sử dụng tốt đẹp có thề trở nên thành công tuyệt hảo. Nhờ cái thất bại đó, con người gặp được Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối cho con người. Và tất cả mọi thử thách của cuộc đời đều là những “Mật mã”, những “ẩn sổ” giúp con người tìm ý nghĩa siêu việt của chúng và chung quy sẽ giúp con người gặp Thiên Chúa.
- Gabriel Marcel (1889 – 1971) nhận xét con người vừa là kiếp trăm năm trong cõi, đau khổ, mong manh, vừa là khả năng đi tới hy vọng, tới vui vẻ nếu mình trung thành với tha nhân, với tiếng gọi hướng thượng, nếu mình tin tưởng vào Thiên Chúa, Thiên Chúa là hiện thân của tình yêu, của an vui.
Vài nét sơ qua trên đây giúp chúng ta có chút quan niệm về trào lưu tư tưởng hiện sinh hữu thần (với Kierkegard, Jaspers, Gabriel Marcel) vô thần (với Heidegger, Sartre, Camus). Thuyết hiện sinh nhấn mạnh khía cạnh con người cụ thể với tất cả những đau đớn lòng, những khát vọng đạt đến cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối. Hiện sinh vô thần không chấp nhận cái tuyệt vời, tuyệt đối của con người vì không tin có Thiên Chúa. Họ chỉ lo chu toàn sứ mạng làm kiếp phù du của thế trần và sẽ chết trong tuyệt vọng, trong phi lý. Hiện sinh hữu thần vượt được lo âu, tuyệt vọng, cô đơn và vui vẻ hy vọng trong niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa.
- J. Maritain (1882 – 197g) triết gia theo tư tưởng thánh Thomas d’Aquin nhưng đồng thời đón nhận tất cả những tiến bộ từ thánh Thomas đến nay, qua những phong trào tư tưởng Descartes, Kant, Hegel, Comte, Bergồn, Heidegger, Sartre, Husserl… Một triết gia nối nghiệp Thomas d’Aquin đã nói tiếng nói của triết trường tồn (philosophie pérenne) cho hôm nay. Maritain không những giúp hiểu Thomas d’Aquin, giúp hiểu triết trường tổn mà nhờ đó, giúp hiểu và đánh giá tất cả những triết thuyết khác, cũ và mới, hôm nay và ngày mai. Sâu sắc, sống động, tinh tế, chặt chẽ như Pascal, văn hào tuyệt hảo và triết gia thiên tài, ông giúp gặp cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối.
- J. Guitton (1901 – 199..) triết gia và văn hào theo truyền thông Platon, Augustin, Newman. Ngoài những tác phẩm chuyên môn, ông viết cho những độc giả “có văn hóa” mà không chuyên môn. Thâm thúy, dịu dàng, Guitton viết như nói chuyện và để nói chuyện, không có vẻ cao kỳ, không muốn gây nhức óc cho độc giả, tuy vậy ông vẫn làm độc giá suy nghĩ, mang chút tư tưởng mới mẻ bổ ích cho tinh thần. Lối viết thấm thìa, súc tích, thâm thúy, trong suốt rất thích nghi với tâm lý hôm nay. Độc giả cảm thấy khá rõ đâu là cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối cho con người: Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô.
- Teilhard de Chardin (1881 – 1955) đem lại cho thế giới tư tưởng một chân trời mới, một cái nhìn bao quát mới về vũ trụ, về con người, và phần nào về tôn giáo. Ông vừa phân biệt vừa thông nhất một cách khoa học, thiên nhiên và siêu nhiên. Ông dựa trên định luật tiến hóa đi từ những vật thấp kém, nhỏ bé nhất đến vũ trụ bao la, đến con người hiện hữu, đến con người siêu nhân, con người siêu nhiên, vươn lên mãi đến tuyệt đỉnh OMEGA, Chúa Ki tô, Chúa Kitô là lý tưởng, vừa là tuyệt đỉnh của muôn vật. Tuy nhiên con người vẫn có trách nhiệm bản thân và sứ mạng tiến đến điểm OMEGA đó. Con người gặp được cái tốt tuyệt vời, tuyệt đối ở điểm OMEGA.
Tôi kết thúc danh sách rút ngắn các triết gia, các tư tường gia trên đây với hai tác giả có thể tượng trưng cho hai gia đình tinh thần khác nhau, một bên dồn mình vào ngu bí, một bên đi đến chân lý con người mong mỏi. Tác giả thứ nhất là Gide, tác giả thứ hai là Newman.
- Gide (1869 – 1951) hiến cho những ai chỉ muốn sống thế trần và không màng đến bên kia thế trần, một lý tưởng hấp dẫn, mê ly. Lý tưởng đó thỏa mãn tất cả những xu hướng của con người thế trần: tự do, tỉnh táo, trách nhiệm đôi với mình, không phải để hy sinh cho kẻ khác dể thụ hưởng tất cả thú vui ở đời, thú vui thể xác, thú vui văn hóa, thú vui hưởng tự do tuyệt đối, không lệ thuộc vào một bó buộc nào, nhất là bó buộc của đạo đức, của Trời, của Thiên Chúa. Con người sẵn sàng hưởng mọi lạc thú nhất là lạc thú chốc lát, ông nói: đừng phân tách Thiên Chúa ra khỏi giây phút hiện tại. Thú vui hiện tại là Thiên Chúa, là thiên đàng. Gide chỉ chuộng món ăn thế trần (Les nour-itures terrestres), chỉ bắt chước đứa con hoang đàng trong đời sống hoang đàng. Ông không chịu trở về nhà Cha.
- Newman (1801 – 1890) thoạt khởi là một vị mục sư tồt thánh thiện của Tin lành Anh giáo, chỉ mến yêu chân lý, luôn luôn chỉ muốn trung thành với chân lý và sẵn sàng hy sinh tất cả để trung thành với chân lý: địa vị, tiếng tâm, áp lực bên bạn, bên thù. Sau đó, ông từ giả Anh Giáo và gia nhập Giáo Hội La Mã lúc 45 tuổi, hy sinh tất cả để trung thành với chân lý đã xuất hiện sau hàng chục năm học hỏi, tìm tòi, thử thách mọi thứ. Nhưng khi thây chân lý chắc chắn 100% ông không do dự, ông chọn đứt chân lý. Newman sống với chân lý và sẽ chết trong chân lý vào tuổi 90. Ông đã thuật lại cuộc hành trình từ sai lầm đến chân lý trong nhiều tác phẩm tuyệt diệu, nhất là trong kiệt tác “APOLGGlA’. Tác giả dược liệt vào hạng thiên tài của Anh quốc, của Giáo Hội Công giáo và còn chiếu sáng cho thời hậu Vatican II.
[1] Nguyễn Duy Cần, Nhập Môn Triết Học Đông Phương, tr.30.
[2] Karl Jaspers. “Lịch sử nhân loại”, trong Triết học nhập môn. Lê Tôn Nghiêm dịch. Bộ Giáo dục và Thanh niên – Trung tâm học liệu xuất bản, 1969, tr. 121-132.
[3] Vp Dom. Phạm Văn Hiền, Nhập Môn Triết Học.
[4] Soạn lại dựa theo Giáo án “Triết học nhập môn” của Vp. Dominico Phạm Văn Hiền
[5] Triết học Platon có rất nhiều vấn đề, nhưng một trong những quan điểm liên quan mật thiết đến lý luận mỹ thuật là vũ trụ quan của ông, được thể hiện rõ trong dụ ngôn Hang động mà có lẽ ai cũng biết, nhưng xin nêu lại ý chính:
Hình dung loài người là một bầy tù nhân bị trói chặt trong một hang động, quay mặt vào vách đá ở đáy động. Vì bị trói chặt, đám người không thể ngoái nhìn ra cửa hang, cũng không thể đi ra ngoài hang. (Hệ thống dây trói này là gì, sau này có nhiều kiến giải. Nhưng chí ít chúng là những hạn chế của thể xác với hệ thống giác quan của nó. Ngoài ra còn những trói buộc về tư tưởng, phong tục tập quán v.v.)
Bên ngoài cửa hang là cả một thế giới. Thế giới này được Platon cho là chân, thiện, mỹ. Trong thế giới đó có vô số thứ hay ho, được Platon gọi là các Ideas, ta dịch là các ý tưởng. Theo Platon thì tất cả các Ideas đều tuyệt đẹp và vĩnh cửu, bất biến.
Các vị thần là những sinh linh hay siêu nhân có thể ra ngoài thế giới tự do đó, và biết tất cả những ideas đó. Thương loài người bị cầm tù, các thần làm một số bản copy của một số ý tưởng đó để mang vào hang cho loài người xem. Những bản copy này có thể được coi như những con rối, hay búp bê, làm theo hình mẫu ngoài thế giới vĩnh hằng. Những con rối này được làm bằng các loại vật liệu nào đó, vì thế, chúng có tính vật chất, tính “thực” của chúng, nhưng đó là cái thực của con rối, khác với cái thực của hình mẫu lý tưởng. Từ một ý tưởng mẫu có thể làm ra muôn vàn con rối khác nhau, bằng những vật liệu khác nhau.
Tuy nhiên, do trong hang tối om, và quá nhiều người tù bị trói, nên muốn cho mọi người cùng xem các con rối, các thần làm một hệ thống chiếu phim, giống như hệ thống xem rối bóng hay projector của ta bây giờ. Họ làm một bức tường đằng sau các người bị cầm tù, đặt các con rối lên đó, rồi đốt một đống lửa đằng sau, để cho bóng của các con rối được hắt lên tường. Đống lửa này có thể coi như mặt trời mà ta biết. Nhờ ánh sáng của nó mà ta thấy được bóng của các con rối.
Theo cách hiểu phổ thông thì các con rối chính là những vật, những objects trong thế giới mà ta gọi là tự nhiên khách quan. Ta có thể đoán biết về sự tồn tại của chúng, nhưng vì chúng nằm ngược sáng nên ta không thể nhìn rõ chúng. Còn những thứ mà ta thấy chỉ là cái bóng của chúng mà thôi. Ví dụ như con ngựa ngoài tự nhiên chính là con búp bê ngựa mà các thần làm ra từ ý tưởng, hình mẫu là con ngựa vĩnh cửu. Nhưng cái mà ta cảm nhận được về con ngựa chỉ là cái ảnh của con rối ngựa đó khi được ánh sáng chiếu vào, và cái ảnh này chỉ là một phần của con ngựa ngoài tự nhiên. Và điều quan trọng nữa là bản thân những ảnh này rất khác nhau trong cảm nhận của mỗi người, phụ thuộc vào điều kiện chủ quan của từng người. Có thể nói mỗi con ngựa chúng ta nhìn thấy là tổng hợp của 3 yếu tố: nguồn sáng, bản thân con ngựa ngoài tự nhiên và hệ thống giác quan, cảm nhận chủ quan của mỗi người.
Tới đây, ta có thể tóm tắt một hệ vũ trụ 3 bậc:
– Thế giới vĩnh hằng với các ideas chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên
– Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, objects được các thần copy từ các idea.
– Thế giới của các cái bóng của những con rối, là hình ảnh về những sự vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người.
[6] Thời kỳ trung cổ của triết học bắt đầu từ sự sụp đổ của văn minh La Mã và bình minh của Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo. Thời kỳ trung cổ mang đến triết học kinh viện Ki-tô giáo, với các tác giả như Augustine xứ Hippo, Boethius, Anselm, Robert Grosseteste, Albertus Magnus, Roger Bacon, Thánh Bonaventure, Thomas Aquinas, John Duns Scotus, William xứ Ockham, Nicholas xứ Cusa và Francisco Suárez. Một nữ triết gia Ki-tô giáo của thời kỳ này là một học trò của Pierre Abélard với tên Héloïse. Các triết gia trong truyền thống kinh viện Ki-tô giáo và các triết gia trong các tôn giáo Abraham chính khác (chẳng hạn các triết gia Do Thái Saadia Gaon và Maimonides, và các triết gia Hồi giáo Avicenna, Al-Ghazali và Averroes) đã có biết đến các công trình của nhau. Các truyền thống tôn giáo này quan tâm đến các câu hỏi về quan hệ giữa con người và Chúa trời. Triết học của thời kỳ này có đặc điểm là sự phân tích về bản chất và các tính chất của Chúa trời; ngành siêu hình học quan tâm đến chất, tính cốt yếu và tình cờ (nghĩa là, các phẩm chất có tính “cốt yếu” với các chất sở hữu chúng hay các chất này chỉ “tình cờ” có các phẩm chất đó), hình thức và khả năng phân chia; ngoài ra còn có lôgic và triết học ngôn ngữ.
Nhiều người trong số các triết gia này đã lấy xuất phát điểm của mình là các lý thuyết của Plato hay Aristotle. Tuy nhiên, những người khác, chẳng hạnTertullian, lại phủ nhận triết học Hy Lạp vì cho rằng nó không đội trời chung với mặc khải và đức tin.
[7] Tam Linh Vị là ba thực tại siêu việt hoặc thực thể (Nhất thể, Tâm trí Thiêng liêng và Linh hồn Thế giới) nâng đỡ thế giới hữu hình và hữu hạn trong đó gồm con người và vật chất cá biệt. Ðôi khi Plotin so sánh Nhất thể với nguồn suối trên cao từ đó tuôn trào các cấp bậc thấp hơn của thực tại.
[8] GS Nguyễn Chính Kết, NĂM PHÚT SUY TƯ TRIẾT
Discussion about this post