PHẦN I. CÁCH DẪN VÀO THÁNH LỄ
+++
Sau khi làm dấu thánh giá và chào theo bản văn trong sách lễ Rô-ma,
Linh mục chủ tế chọn cách mở đầu (tùy đối tượng tham dự mà xưng hô cho phù hợp):
. Kính thưa quý ông bà anh chị em!
. Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!
. Kính thưa anh chị em, cách riêng (giới, hội, ban…).
(Lưu ý: Đã dùng chữ “kính thưa” thì bỏ chữ “thân mến” phía sau. – chọn một trong hai).
Sau đó nói về ý cầu nguyện:
I. NGÀY THƯỜNG NIÊN (không trùng với bất kỳ lễ nào).
Có ba trường hợp:
1. Theo truyền thống phụng vụ:
. Thứ hai: Cầu xin ơn Chúa Thánh Thần…
. Thứ ba: Với thiên thần bản mệnh…
. Thứ tư: Với thánh cả Giu-se…
. Thứ năm: Lễ về Thánh Thể, hoặc cầu cho các linh mục.
. Thứ sáu: Lễ về Thánh Tâm Chúa Giê-su, hoặc kính mầu nhiệm Thánh Giá…
. Thứ bảy: Lễ về Đức Mẹ.
Ví dụ (thứ hai): Kính thưa QÔBACE! Hôm nay, theo truyền thống phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ về Chúa Thánh Thần. Xin Chúa ban tràn đầy bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần trên mọi người chúng ta, để chúng ta sống đẹp lòng Chúa, xứng danh là Ki-tô hữu.
2. Cầu nguyện theo ý trong các bài đọc Lời Chúa hôm đó.
Ví dụ: Thánh lễ hôm nay, chúng ta dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, và xin Chúa ban cho chúng ta, biết sống… như Chúa nói qua bài Tin Mừng hôm nay.
Xin cũng cầu nguyện theo ý người xin lễ cầu cho…
3. Theo nhu cầu (thời sự – đang xảy ra).
(Lưu ý: Cầu cho kẻ sống trước cầu cho kẻ chết sau).
+ Cho kẻ sống:
– Nhu cầu Giáo hội:
. Cầu cho Giáo hội hiệp nhất, phát triển…
. Cầu cho việc truyền giáo…
. Cầu cho việc đào tạo ơn gọi…
. Cầu Đức Thánh Cha, cho các vị mừng bổn mạng, kỷ niệm, chịu chức, khấn dòng, hôn phối…
. Cầu cho cộng đoàn, hội, giới…
. Cầu cho các ân nhân…
. Cầu cho việc từ thiện, hành hương…
. Thiên tai: Xin Chúa thương đến các nạn nhân bão lụt, dịch bệnh…
. Cầu cho hòa bình thế giới, cầu cho nạn nhân chiến tranh, cho các vị lãnh đạo các quốc gia…
. Đặc biệt, cầu cho chính mọi người chúng ta…
…
+ Cầu cho kẻ chết:
. Cầu cho linh hồn X… và X…, là…, nhân ngày…
Lưu ý:
– Linh mục đừng nói quá nhiều ý cầu nguyện, thiết nghĩ không quá ba ý nguyện.
Ví dụ: “Kính thưa… Hôm nay chúng ta dâng thánh lễ cầu cho hòa bình thế giới, xin Chúa cho các nhà lãnh đạo các quốc gia đang có chiến tranh biết cùng nhau tìm ra giải pháp hòa bình; xin Chúa cũng nâng đỡ các nạn nhân chiến tranh và mở lòng nhiều nhà hảo tâm giúp đỡ họ.
Xin cũng cho mọi người chúng ta biết sống yêu thương nhau, như lời mời gọi ủa Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay là ‘hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu’, để mọi người nhận ra chúng ta là những người con của Chúa”.
– Nên gạch đầu dòng từng ý nguyện vào trong tờ fit nhỏ, sẽ thuận tiện hơn.
– Tiếp đến, mở đầu công thức thống hối bằng lời kêu mời trong sách lễ Rô-ma, hoặc nói:
“Chúng ta thành tâm sám hối, xin Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót của chúng ta, để xứng đáng cử hành thánh lễ”. Hoặc tùy nghi mời gọi với nội dung tương tự.
– Không nói: “Để của lễ hay là lời nguyện của chúng ta đáng được Chúa chấp nhận…”.
II. NGÀY LỄ VỀ CHƯ THÁNH.
Có thể chọn một số cách như sau:
– Trích vắn tắt sử liệu về ngày lễ.
Ví dụ: “Thánh lễ mà chúng ta mừng hôm nay, được Đức Thánh Cha… lập ra, vào ngày…”.
– Trích vắn tắt về lịch sử vị được mừng kính hay nhớ.
Lưu ý: Đây không phải là một bài sử, chỉ nói vắn tắt vài dòng. Ví dụ: “Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ thánh…, ngài sinh vào năm…, chịu tử đạo vào ngày, bởi…, và được phong hiển thánh ngày…”.
– Trích một đến hai đạo lý, lời nói, hay đời sống của vị đang được kính nhớ.
Ví dụ: “Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ thánh…, ngài để lại cho chúng ta một đạo lý…;
. hoặc thánh nhân có một câu nói thời danh làm châm ngôn sống cho ngài và cho chúng ta là…;
. hoặc đời sống của thánh… cho chúng ta tinh thần sống…
Lưu ý: . Không nên chọn quá nhiều, vừa lịch sử, vừa tiểu sử, vừa đạo lý, vừa gưởng sống… Chọn một đến hai ý là vừa.
. Nên chọn về gương sống thì dễ hơn, không nên chọn sử, vì các con số về thời gian khó nhớ và dễ bị lẫn lộn…
– Mừng lễ ngài, chúng ta nguyện xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh… ban cho mọi người chúng ta, được…
– Thinh lặng giây lát…
– Tiếp đến, mở đầu công thức thống hối bằng lời kêu mời trong sách lễ Rô-ma; hoặc nói: “Chúng ta thành tâm sám hối, xin Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót của chúng ta, để xứng đáng cử hành thánh lễ”; hoặc tùy nghi mời gọi với nội dung tương tự.
III. LỄ HÔN PHỐI và CẦU HỒN
+ LỄ HÔN PHỐI
– Trích một lời trong các bài đọc Lời Chúa của lễ hôn phối để mở đầu…
Ví dụ: “ACE thân mến! Hôm nay trong giáo xứ chúng ta, có các anh chị dắt nhau tiến ra trước bàn thờ Chúa và giữa cộng đoàn dân Chúa để thề hứa kết nên vợ chồng, cộng đoàn giáo xứ chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa, đón nhận thêm một (những) gia đình mới; đặc biệt cầu xin Chúa kết hợp họ nên một với nhau trọn đời, như Lời Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay dạy: “sự gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly”.
– Nói về hôn nhân trong Hội thánh Công giáo…
Ví dụ: “… Hôn nhân công giáo là hình ảnh tình yêu giữa Chúa Ki-tô và Giáo hội của Người, vì thế, hôn nhân công giáo không chỉ là một thủ tục pháp lý, mà là một tích kết hợp trọn vẹn cả tâm hồn và thể xác của hai người nam nữ, để trọn đời chung thủy với nhau và cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa… Vì thế, chúng ta cùng cầu xin Chúa chúc lành, thánh hóa và nâng đỡ các đôi hôn phối này…”
– Một tư tưởng về tình yêu hôn nhân mà linh mục chủ sự tâm đắc nhất muốn nhắn gửi…
Ví dụ: Văn hào Exupery nói: “Yêu nhau là biết hướng vào nhau và cùng nhìn về một hướng”. Chúng ta cử hành thánh lễ hôn phối này cho (các) đôi tân hôn… Xin Chúa ban cho các anh chị khi đã được Thiên Chúa kết hợp, thì luôn biết hướng vào nhau để nên một lòng một ý với nhau, và cùng chung một hướng xây dựng gia đình tương lai của mình nên hạnh phúc viên mãn.
+ CẦU HỒN.
* An táng.
Khởi đầu, nói vắn tắt về tiểu sử; dẫn một vài công đức hay nét nổi bật mà chính linh mục chủ lễ thấy là đáng ca ngợi. Tuy nhiên, tránh phóng đại quá lời thành một bài điếu văn… Đây là dâng lễ cầu hồn, chứ không phải lễ “phong thánh”… Hướng cộng đoàn dân Chúa cầu nguyện cho người quá cố, chứ không phải tài làm cho nhiều người khóc than.
Tiếp đến, có thể chọn một vài các ý dẫn sau đây:
– Lời Chúa: Dựa theo các bài Lời Chúa trong lễ an táng.
– Mầu nhiệm các thánh thông công: Nói lên sự hiệp thông giữa các thành phần Giáo hội, để nói lên quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người phải cầu nguyện cho tín hữu vừa qua đời.
– Một tư tưởng giáo lý: Nói về niềm tin và niềm hi vọng phục sinh (như: “Về nhà Cha”, “chết là ngưỡng cửa đi vào cõi sống vĩnh cửu…”).
– Một ý tưởng hay quan niệm về cái chết (như: “Sống gửi thác về”, “quy về tiên tổ”…).
Sau khi đã nói về người quá cố, thì có thể kết lại bằng lời mời gọi cầu xin Chúa an ủi những thân nhân của người quá cố. (Ngoài ra, có thể thêm lời mời gọi cầu nguyện và nâng đỡ cho những trẻ mồ côi, hoặc quả phụ khó khăn, nếu có).
Một vài lưu ý khác:
. Giữa hai thế giới hữu hình và vô hình, không ai biết và không ai có thể khẳng định là người quả cố đã lên thiên đàng, vảo luyện tội, hay sa hỏa ngục. Nên đừng tự tiện phán hay tạo nên cách nói lập lờ mơ hồ, mà hãy lo kêu gọi cầu nguyện cho người quá cố trong tương quan, trách nhiệm và bổn phận ngườ Ki-tô hữu.
. Là phận người bất toàn yếu đuối, không thể tránh khỏi những thiếu sót xúc phạm đến Chúa và tha nhân; hơn nữa, trước mặt Thiên Chúa chí thánh, thì tất cả đều là tội nhân. Nên việc dâng lễ này là phó thác người quá cố cho Lòng Thương Xót Chúa, nhờ công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô.
. Đặc biệt, đừng vì cả nể thân nhân người quá cố, hay người quá cố là “ân nhân” mà kể lể quá dài dòng tiểu sử và công đức…
* Giỗ.
Giỗ là dâng lễ vào chính ngày qua đời sau một năm hay nhiều năm sau.
Giỗ đầu hay giỗ giáp năm, giỗ mãn tang hay giỗ bao nhiêu năm… thì thuộc truyền thống từng dân tộc khác nhau, chư không phải luật buộc.
Việc làm lễ tuần ba hay tuần bảy, năm mươi ngày hay một trăm ngày là một hình thức theo thói quen địa phương, chứ không phải là tín lý. Thực chất, nếu có cử hành thì chỉ là như một lễ cầu hồn mà thôi.
– Mở đầu bằng cách xác định vắn tắt về vai trò của người quá cố và mốc thời gian giỗ (Ví dụ: “Ông X… là một người con trong giáo xứ chúng ta đã qua đời và hôm nay giỗ n… năm).
– Lời mời gọi cầu nguyện cho linh hồn người ấy.
* Cầu hồn.
– Mở đầu nói đến ngay cầu cho linh hồn được xin lễ…
– Nối kết với Lời Chúa hôm đó, hoặc ý tưởng về sự chết – phục sinh để mời gọi cầu nguyện cho nhau.
*
* *
PHẦN II. CÁCH SOẠN BÀI GIẢNG LỄ
I. MỘT SỐ LƯU Ý VỀ GIẢNG LỄ.
Phân biệt.
Cần xác định đây là bài giảng lễ, khác với bài chia sẻ hay là suy niệm:
. Giảng lễ là trong Thánh Lễ.
Chỉ có bậc Giáo sĩ (Giám mục, Linh mục, Phó tế) mới được giảng lễ.
Giảng lễ trong tư cách là người thay mặt Chúa nói với những người tham dự thánh lễ.
Nội dung bài giảng phải từ các bài đọc Lời Chúa ngày hôm đó, giúp người nghe nhận ra bài học Chúa muốn nói với họ điều gì, đồng thời giúp họ có được cách để thực hành.
Giảng lễ bao gồm cả về giáo huấn, khích lệ, kêu gọi và răn đe…
. Chia sẻ Lời Chúa thì xảy ra ngoài Thánh lễ.
Có thể dành cho bất cứ ai, nhưng thường thì người chia sẻ phải có chuyên môn, hoặc được chỉ định.
Người chia sẻ Lời Chúa không nói trong tư cách thay mặt Chúa để răn dạy ai.
Chia sẻ Lời Chúa có thể chọn nội dung các bài Lời Chúa hôm đó, hoặc một vài câu Lời Chúa mà người chia sẻ tâm đắc hoặc hợp với đối tượng nghe, hay là chọn một đề tài nào đó rút ra từ Lời Chúa.
Chia sẻ Lời Chúa không mang tính giáo huấn hay răn dạy điều gì.
. Suy niệm Lời Chúa thường trong các buổi cầu nguyện, chầu Thánh Thể, hoặc sau một sinh hoạt đạo đức nào đó. Suy niệm Lời Chúa gần như là một buổi cầu nguyện.
Ai cũng có thể suy niệm Lời Chúa.
Người suy niệm không nhân danh hay thay thế ai. Người suy niệm nói với Chúa hay một đấng thánh nào đó, chứ không phải nói với người tham dự.
Nội dung thì dựa trên một đoạn Lời Chúa bất kỳ do họ chọn, hay một đề tài được chọn, hoặc chủ đề của buổi cầu nguyện, và cả với tâm tình cá nhân.
Thường thì kết thúc suy niệm bằng Lời cầu nguyện và có “A-men”.
2. Nên và không nên.
– Trừ những trường hợp đột xuất, bài giảng cần được soạn trước.
– Bài giảng cần có đầu có đuôi, nghĩa là có mở – thân – kết, chứ không phải nói hết thứ này sang thứ khác, và thao thao bất tuyệt không có chỗ đáp.
– Đừng quá ham nhiều ý tưởng, không ai nhớ hết và thực hành hết được điều mình nói đâu.
– Đã nêu ra điều gì thì phải giải quyết được vấn đề, chứ đừng nêu ra rồi để đó, đánh đố người nghe chỉ thêm hoang mang và chẳng đem lại bài học gì.
– Bài giảng là để giúp dân Chúa hiểu và sống, nên tránh nói những điều mập mờ, hoặc hai ý, hay bỏ lửng…
– Vì bài giảng là thành phần của Thánh Lễ, nên cần sự uy nghiêm và trang trọng, vì vậy tránh tối đa những từ ngữ thô tục, hoặc làm người nghe liên tưởng đến chuyện tục tĩu (từng gặp thấy một vị rất dễ nói chuyện tục trong bài giảng, dùng từ rất thô).
– Cần kiểm soát được thời gian, không nên giảng quá dài. Hay đến mấy mà dài cũng gây mệt mỏi và người nghe cuối cùng cũng chẳng nhớ được.
– Khiêm tốn và tôn trọng người nghe. Dù trước mặt mình là ai cũng cần có sự khiêm tốn và xưng hô phù hợp. Ngay cả việc chuẩn bị bài giảng kỹ càng cũng là một sự khiêm tốn và tôn trọng người nghe.
– Bài giảng Lời Chúa, chứ không phải để khoe kiến thức (học rộng biết nhiều). Các câu trích dẫn không nên biến thành cơ hội bắn ngoại ngữ để chứng tỏ mình. Cũng không nên dùng từ quá chuyên môn về thần học và triết học để rồi người nghe không hiểu. Thiết nghĩ, dùng từ bình dân mà người nghe hiểu được điều Chúa muốn vẫn hơn.
– Điều mà chính mình không chắc chắn, quên, hay dễ lẫn lộn thì không nên nói (vd: người viết từng nghe một vị giảng rằng: “Thiên thần là một trong Ba Ngôi Thiên Chúa”, hay là một vị khác giảng: “Thánh Barnaba là Tông Đồ được các tông đồ bỏ phiếu vào Nhóm Mười Hai”…).
– Cần phân biệt và chọn điều chính trong Lời Chúa mà giảng, chứ đừng chọn điều phụ chẳng ăn nhập gì, nhưng lại hợp với mình, rồi đem ra giảng (vd: có người đọc bài Tin Mừng về người phú hộ và ông Lazaro, trong đó nhắc đến con chó liếm ghẻ chốc cho Ladaro, thế là vị kia đem chuyện thịt chó ra giảng…).
– Trong trách nhiệm của một người dẫn dắt dân Chúa, cách riêng là con chiên của mình trong giáo xứ, nên đôi khi có thể phải nói hơi nặng nề và tiêu cực, nhưng tuyệt đối không được nói tên ai hay tổ chức nào, cũng không được nói làm người ta có thể đoán là “cha nói ai”.
– Kể chuyện ngắn để dẫn vào hay minh họa cho lời giảng là một cách hay, nhưng đừng lạm dụng kể nhiều hay kể dài, để rồi người ta chỉ lo nghe chuyện và chuyện nhiều chuyện dài chiếm hết bài giảng.
– Không nên kể chuyện phiếm quá lố, cũng đừng có suy nghĩ giảng làm người ta cười nhiều hay khóc nhiều là thành công. Đó không còn là bài giảng mà là diễn hài hoặc đọc điếu văn. Có vị hát một vài câu thánh ca trích lời Chúa hôm ấy để sinh động bài giảng cũng tốt, nhưng coi chừng dễ rơi vào “thích nghe cha hát” còn Chúa muốn gì hôm đó thì không biết.
– Tránh dùng bài giảng để lên án chỉ trích ai, tránh dùng bài giảng để vận động việc này chuyện kia – chuyện đó để nói trước hoặc sau lễ – (có người nói rằng: “cha xứ chúng con rất giỏi, bài Tin Mừng nào cũng giải thích ra đóng góp được cả”).
– Tránh lối nói tiêu cực quá khích, cũng không nên đưa chính trị vào bài giảng, vì giảng là giảng về lời Chúa cho dân hiểu và sống.
II. MỘT SỐ CÁCH SOẠN BÀI GIẢNG.
– Dù soạn cách nào thì cũng phải đọc kỹ và đọc đi đọc lại các bài Lời Chúa hôm đó ít nhất 3 lần.
– Cầu nguyện xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
– Nên đọc bài Tin Mừng trước, đến bài đọc I, bài đáp ca (nếu lễ có 2 bài đọc, thì bài Tin Mừng – Bài đọc I – Đáp ca – Bài đọc II). Trong đó, bài Tin Mừng là nội dung chính, bài đọc I thường minh họa, hay dẫn vào, hoặc tiên báo và làm sáng tỏ bài Tin Mừng; Đáp ca là vừa nối dài bài đọc I vừa nối kết với Tin Mừng; Bài đọc I thường là làm sáng tỏ và giải thích nội dung của bài đọc I và Tin Mừng.
– Chọn phương pháp diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng-phân-hợp, hay đặt câu hỏi… cũng đều có mở – thân – kết rõ ràng.
– Có thể chỉ chọn một bài Lời Chúa ngày đó, đặc biệt là bài Tin Mừng để giảng mà không nhất thiết phải nối kết hết các bài kia.
1. Tìm tư tưởng cho bài giảng.
Đương nhiên là những tư tưởng này phải được nghiệm ra nhờ bản văn Lời Chúa hôm ấy.
– Có thể là tư tưởng mà người giảng tâm đắc nhất;
– Có thể là hợp với bối cảnh hôm đó nhất;
– Có thể là chợt nghĩ ra mới nhất của người giảng khi đọc bản văn Lời Chúa.
…
– Có thể là dùng hết tất cả các ý trên (không ủng hộ, vì nguy cơ quá dài).
Ví dụ: Bài Tin Mừng Mt 11,28-30. Có nhiều ý để chọn:
. Có người chọn ý tưởng “học với Chúa” để sống hiền lành và khiêm nhường, rồi phân tích và mời gọi sống hai nhân đức đó.
. Có người chọn ý về “gánh nặng” bao gồm gánh nặng lề luật và gánh nặng cuộc đời, rồi giải thích và mời gọi trút gánh lo vào tay Chúa.
. Có người chọn cách nói về “cái ách”, giải thích mang ách là nặng nề khổ cực, nhưng cũng kéo tất cả về phía trước, làm cho mảnh đất được cày xới đem lại nhiều hoa trái (tư tưởng mới).
2. Cách mở đầu:
Bằng một câu chuyện ngắn
Bằng trích đoạn tư tưởng ngắn…
Bằng cách đặt câu hỏi và từng bước trả lời.
Bằng việc đưa ra từ khóa hay sợi chỉ đỏ xuyên suốt các bài đọc, rồi giải thích.
Bằng cách dẫn nhập trực khởi hay lung khởi.
Bằng cách phân tích Tin Mừng, nối kết với các bài đọc, hoặc cũng có thể mở rộng nối kết các bản văn Lời Chúa khác.
3. Các phương pháp:
– Diễn dịch
– Quy nạp
– Song hành.
– Móc xích
– Tổng-phân-hợp.
– Từ khóa.
– Rút gọn thành những từ dễ nhớ.
– Đặt câu hỏi.
– Chú giải bản văn Lời Chúa.
(trong các phương pháp này đều có thể vận dụng các cách mở đầu như đã nói ở trên).
a, Phương pháp diễn dịch.
Diễn dịch là đưa ra câu đứng đầu có thể khái quát toàn bộ nội dung, các câu tiếp theo triển khai cụ thể chi tiết từng ý theo câu chủ đề, làm rõ, bổ sung cho câu chủ đề. Các câu tiếp theo được triển khai bằng cách chứng minh, phân tích, giải thích, có thể đưa vào một số nhận xét.
Ví dụ 1: Về tâm hồn cao đẹp – Mt 5,1-12 – giảng về Phúc thật tám mối (dẫn nhập trực khởi).
Chúa Giê-su thường nói về vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt là sự trong sạch và yêu thương. Ngài nhấn mạnh rằng vẻ đẹp thực sự không nằm ở vẻ bề ngoài mà ở tâm hồn bên trong, nơi chứa đựng tình yêu, lòng thương xót và sự khiêm nhường.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy rằng “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8). Theo Kinh Thánh. Điều này có nghĩa là một tâm hồn không vướng bận tội lỗi, không bị ảnh hưởng bởi những ham muốn trần tục, và hướng về Thiên Chúa.
Chúa Giê-su dạy chúng ta yêu thương lẫn nhau, yêu thương cả kẻ thù, và tha thứ cho người khác. Tình yêu thương là biểu hiện của một tâm hồn đẹp, một tâm hồn biết chia sẻ, cảm thông và tha thứ.
Chúa Giê-su đã nêu gương về sự khiêm nhường, sẵn sàng phục vụ người khác. Một tâm hồn khiêm nhường sẽ không tự cao tự đại, mà biết nhận ra những điều tốt đẹp ở người khác và sẵn sàng học hỏi.
Một tâm hồn đẹp còn có sự bình an, không bị xáo trộn bởi những lo lắng, sợ hãi hay những điều tiêu cực. Chúa Giê-su dạy chúng ta đặt niềm tin vào Ngài, để Ngài ban cho chúng ta sự bình an.
Vậy thì, làm thế nào để có một tâm hồn đẹp?
Cầu nguyện giúp chúng ta kết nối với Chúa, tìm kiếm sự hướng dẫn và sức mạnh để sống tốt hơn.
Sự tĩnh lặng của tâm hồn cũng giúp chúng ta cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và nuôi dưỡng vẻ đẹp tâm hồn.
Sống theo những lời dạy của Chúa Giê-su, như yêu thương, tha thứ, khiêm nhường, sẽ giúp chúng ta có một tâm hồn đẹp.
Mời Chúa Giê-su ngự trị trong trái tim, để Ngài hướng dẫn và biến đổi cuộc đời chúng ta.
Tóm lại, Vẻ đẹp tâm hồn là một quá trình, một hành trình dài đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và sự yêu thương. Nhưng khi chúng ta biết hướng về Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy vẻ đẹp thực sự của tâm hồn, và cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên ý nghĩa và trọn vẹn hơn.
…
Ví dụ 2: Về lắng nghe Lời Chúa – Lc 11,27-28 (dẫn nhập lung khởi + câu chuyện mở đầu).
Chúng ta thường nói và đọc vào các ngày Chúa Nhật về 8 cái phúc – “Phúc thật tám mối”. Nhưng hôm nay, cái phúc thứ 9 mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, tóm lại hết mọi mối phúc, là “phúc cho ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa”.
Cái phúc này nó lớn đến nỗi, biến người Lắng Nghe và Thực Hành Lời Chúa trở thành Mẹ và Anh Em của Chúa.
Trước hết và trên hết, Đức Mẹ là người có trọn vẹn mối phúc này: Nhất Mẹ Maria luôn, chẳng ai lắng nghe Lời Chúa hơn Mẹ, chẳng ai tuân giữ Lời Chúa hơn Mẹ… và Mẹ là người phụ nữ duy nhất làm Mẹ Thiên Chúa trong bản tính nhân loại. Mẹ có đặc ân Theotokos. Trước khi Mẹ Cưu Mang Thiên Chúa Nhập Thể, thì Mẹ đã cưu mang Lời Thiên Chúa khi Mẹ đã lắng nghe và thực hành Lời Chúa, Mẹ đã ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Đây này: Mẹ của Chúa đây này, anh của Chúa đây này, em của Chúa đây này. Nói vậy là vì ông, bà, anh, chị, em… đang sốt sắng ngồi đây để LẮNG NGHE Lời Chúa, để rồi từ nơi đây, ACE ra đi đem Lời Chúa vừa nghe đi vào trong cuộc sống chúng ta !!!
Câu chuyện ba bức tượng:
Hồi trạng Quỳnh đi sứ nhà Thanh. Nhà Thanh muốn thử tài sứ giả nước Việt đã bày ra ba pho tượng tiểu đồng giống hệt nhau và bảo Trạng Quỳnh phải tìm ra pho tượng nào giá trị nhất.
Trạng Quỳnh quan sát ba pho tượng tiểu đồng, kích thước bằng nhau, đúc chất liệu như nhau, sơn màu giống nhau, cân nặng như nhau, nói chung là không có gì khác bọt cả. Trạng Quỳnh liền lấy một sợi dây xỏ vào tai: pho tượng thứ nhất xỏ vào tai này xuyên qua tai kia, pho tượng thứ hai sợi dây đi từ tai xuống miệng ra ngoài, còn pho tượng thứ ba sợi dây xuyên từ tai xuống bụng và dừng lại. Trạng Quỳnh chọn pho tượng thứ ba là quý giá nhất.
Kể xong không cần giải thích thì mọi người cũng đã hiểu rồi…!
– Nghe mà vào tai này ra tai kia thì vứt, như nước đổ lá môn – đầu vịt. Những kẻ như hạt giống bên vệ đường, bị giẫm đạp hoặc chim trời ăn mất. Nghe đọc Lời Chúa, nghe giảng dạy, nghe nhắc nhở đều bỏ ngoài tai, như không !!!
– Nghe vào tai nhưng liền lum loa lét phét nói ra liền, thậm chí thêm mắm thêm muối, buôn chuyện, nghe chưa đầu đuôi và chưa hiểu đã vác đi nói, chưa nắm bắt được rõ ràng đã phản ứng… sợ nhất là “con nghe nói” nhưng chẳng chắc chắn gì đã mang đi mách lẻo tám chuyện. Lời Chúa chẳng sinh hoa kết quả gì với loại này, chỉ thêm tội.
– Nghe và để cho thấm xuống tim, xuống bụng. Nghĩa là phải biết suy đi nghĩ lại trong lòng, rồi đem ra thực hành mới là đáng quý nhất.
Chúng ta không nghe được là vì chúng ta bận rộn với đủ thứ ồn ào, đặc biệt với thời đại công nghệ hôm nay: Tối về đã mất đi bữa cơm thân mật của ngày xưa, ông một iphone, bà một ipad, con một galaxy… mỗi người mỗi góc nhà. Ngay cả việc đến nhà thờ, vẫn chia trí vì cái smartphone chụp choẹt hay xem tin nhắn facebook, zalo, telegram, tiktok… (rồi kết luận).
…
b, Phương pháp quy nạp.
Là được trình bày cụ thể chi tiết từ nhỏ đến lớn, từ các ý rất chi tiết đến ý khái quát hơn, từ ý luận cứ cụ thể đến luận điểm bao trùm. Các câu trên được trình bày bằng các phương pháp như giải thích, lập luận, cảm nhận và rút ra bài học.
Ví dụ 1: Về cách sống đạo – Mc 7,1-8.14-15.21-23 (sử dụng một tư tưởng để dẫn nhập).
Khi đi chúc tết, các cán bộ thường chúc các cha và giáo dân “sống tốt đời đẹp đạo”, nhưng có đúng như vậy không, hay là do họ cố tình “đánh tráo khái niệm”?
Tốt là bản chất bên trong, đẹp là mã bên ngoài. Nói thế, đạo chỉ là cái mã bề ngoài trống rỗng, còn đời mới là bản chất tốt? Nên phải nói lại: “Tốt đạo đẹp đời” mới đúng.
Một cô gái đẹp, chưa chắc gì đã tốt (coi chừng thấy đẹp mà đụng phải bị đánh cho phù mỏ; hoa hồng đẹp nhưng có gai làm rỉ máu); nhưng một con người có tâm hồn tốt, thì tự khắc sẽ đẹp lên trước mặt mọi người “hữu xạ tự nhiên hương”.
Tục ngữ cũng có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Người ta thích cái đẹp bề ngoài chỉ là mau qua, nhưng cái tốt bản chất mới thực sự tồn tại. Chính vì thế mà xưa các cụ chọn con dâu hầu như chỉ ưu tiên cái tốt trước khi để ý đến cái đẹp.
Hôm nay, Chúa Giê-su nói với chúng ta về sự giả hình bề ngoài, nhưng tâm hồn đầy xấu xa của các biệt phái Pha-ri-sêu xưa.
Phải, chuyện đồ ăn thức uống hằng ngày chỉ là nhu cầu nuôi sống thể xác, nhưng đã bị các kinh sư đẩy lên thành một thứ luật lệ và thậm chí đặt nó thành định chế tôn giáo. Họ phân định ra những thức ăn nào là dơ và thức ăn nào là sạch, thức ăn nào bị cấm và thức ăn nào được ăn, thức ăn nào thành tội và thức ăn nào là thánh…
Chúa Giê-su không đồng tình với cách phân biệt này, Người khẳng định mọi thức ăn đều sạch, chỉ có lòng người mới là nguồn gốc của sự ô uế.
Đành rằng có thể có những đồ ăn thức uống có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ vì có độc hoặc không đảm bảo vệ sinh, nhưng chắc chắn không có thứ thực phẩm nào làm cho tâm hồn ra ô uế được. Sự ô uế của tâm hồn chỉ xảy đến từ những tư tưởng xấu và những hành động xấu mà Chúa Giê-su đã liệt kê ra hôm nay: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7,21-23).
Lời Chúa Giê-su nói với người Pha-ri-sêu cũng là lời cảnh tỉnh cho con người thuộc mọi thời đại. Bên ngoài người ta có thể là những người rất đạo mạo, lịch sự, danh giá, chức quyền, sang trọng, nhưng bên trong lại chất chứa đầy sự tham lam độc ác “đầy những chuyện cướp bóc, gian tà”. Bên ngoài đẹp như hàng Nhật, nhưng bên trong thì là linh kiện rởm của Trung Quốc. Nhiều người chúng ta ưa tô điểm cho vẻ bề ngoài của mình để được nổi trội, kể cả việc làm phúc bố thí, nhưng bên trong đầy những mưu mô ngầm ý về danh tiếng và danh vọng.
Vì thế, Chúa mời gọi chúng ta trong khi lo trang điểm cho mình vẻ đẹp bề ngoài, thì cũng lo trang sức cho tâm hồn những nhân đức thánh thiện, lo cải hoá đời sống để được đổi mới trong mọi sự. Sống đạo với nghi lễ, làm đủ việc đủ giờ mà thôi thì chưa đủ, nhưng phải có tâm tình bên trong, và trong đời sống thường ngày, phải tỏ hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và bác ái với mọi người.
…
Ví dụ 2: Về bánh hằng sống – Ga 6,30-35.
Mở đầu bài Tin Mừng, dân chúng đòi Chúa Giêsu một dấu lạ để tin Người là Đấng Thiên Sai. Họ muốn Chúa Giêsu cho ăn bánh không chỉ một lần như Người vừa mới hoá bánh ra nhiều để họ được no nê, mà muốn được ăn mãi như ngày xưa Môsê đã xin Chúa nuôi dân Israel bằng man-na suốt bốn mươi năm. Đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm của dân chúng về Đấng Thiên Sai, vì họ chỉ tìm kiếm một vị chúa thoả mãn sự lười biếng của họ, là ngồi chờ sung rụng không phải làm mà hàm cứ muốn nhai. Trong khi Chúa Giêsu lại muốn họ không phải chỉ tìm kiếm thứ man-na nuôi thân xác sẽ chết, mà là Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng tâm hồn đạt đến sự sống đời đời.
Nhớ lại xưa kia, khi dân Israel đi trong sa mạc và thiếu thốn mọi thứ, Thiên Chúa ban cho họ thức ăn “từ trời xuống” là man-na. Nhưng nếu coi Thiên Chúa chỉ là ân nhân và nếu hễ đến với Người là xin xỏ cái này cái kia, thì cuối cùng con người chỉ chú tâm đến cái Thiên Chúa ban cho; may lắm là biết cảm tạ Người rồi sau đó lại tiếp tục than van kêu trách và chán ngấy. Đó là điều dân Israel đã làm, vì sau khi nhận được man-na, họ vẫn nổi loạn chống lại Thiên Chúa và chết trong sa mạc. Thật vậy, những của cải vật chất, cho dù là của trời cho, chẳng làm cho chúng ta tốt hơn, vì nó không thể đem lại sự sống đích thực. Con người không có sự sống tự nơi mình, nên phải không ngừng lấy từ bên ngoài những gì cần thiết để duy trì sự sống, nhưng rồi đến một ngày sự sống lệ thuộc kia phải chấm dứt vì con người chưa tìm được lương thực thường tồn.
Vì thế, Thiên Chúa ban một quà tặng mới: bánh từ trời xuống không phải là một vật gì đó mà là một Ai đó. Đức Giêsu là quà tặng cao quý nhất mà Chúa Cha ban tặng cho con người. Người là Bánh Sự Sống, là nguồn sống và là sự sống đích thực. Bánh sự sống đích thực này ban lại sự sống đời đời. Nhưng để nhận được Bánh ấy, mỗi cá nhân cần có thái độ đáp ứng riêng của mình với Chúa Giêsu Kitô là tin vào Người.
Như vậy, sự sống thể lý không phải là sự sống tự thân mà là sự sống lệ thuộc, nghĩa là nó cần đến lương thực vật chất nạp vào để duy trì, nhưng vì nó hữu hạn, nên sẽ đến lúc sự sống đó không thể thâu nạp được lương thực nữa nó sẽ èo ọt yếu ớt và chết. Còn sự sống thần linh là sự sống siêu nhiên Chúa ban, tuy không chết, nhưng rất cần được nuôi dưỡng bằng Bánh Sự Sống là Thánh Thể, mà Thánh Thể chính là sự sống tự thân nơi Chúa Kitô thông truyền cho linh hồn chúng ta. Nhờ rước lấy Chúa Kitô mà Kitô hữu được mạnh mẽ và tăng trưởng, không sợ tội lỗi hay ma quỷ có thể xâm nhập và làm tổn hại linh hồn.
c, Phương pháp song hành.
Song hành là triển khai nội dung song song giữa các câu, không nội dung nào khái quát, bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn đều nêu lên một khía cạnh riêng biệt, không câu nào khái quát câu nào là một mắt xích quan trọng để làm rõ lên nội dung đoạn văn.
Ví dụ 1: Con người trước sóng gió cuộc đời (x. Mt 14,22-33).
Sóng gió trên biển cuộc đời, sóng gió trên hành trình làm người, sóng gió trên hành trình làm môn đệ… là những đau thương mất mát, những thất bại ê chề, những hoạn nạn éo le, những cô đơn thất vọng; là những bủa vây của quyền thế danh lợi, của đam mê phóng túng; là những đêm tối đức tin, những bơ vơ lạc lõng, những thử thách bách hại… Sóng gió nào cũng làm lòng người hoang mang, hoảng sợ, chông chênh.
Mặt nước của cuộc đời là sự mong manh của thân phận con người, mong manh như hoa cỏ, chỉ một cơn gió thoảng cũng chẳng còn; mong manh như giọt sương mai, vội biến tan khi bình minh thức giấc; mong manh như bình sành đặt trước gió, mới đó, nhưng có thể sẽ vỡ tan tành; mong manh của giới hạn của bản thân, sự bất trắc trong việc tuân giữ luật Chúa và Hội thánh, sự tự do đầy nguy cơ có thể bị biến chất, những lối tính toán xoay xở theo kiểu của con người, những lời mời mọc ngọt ngào lao mình vào lối mòn hưởng thụ…
Tất cả làm cho người Ki-tô hữu lắm lúc hoang mang và mất phương hướng, đến nỗi không còn tin vào ai nữa, giống như các môn đệ Chúa đến đứng đó mà vẫn cứ hoài nghi là bóng ma.
Tin Mừng kể lại, Chúa Giê-su đã trấn an: “Thầy đây đừng sợ”, rồi khi Người bước lên thuyền thì trời yên bể lặng.
Chúa Giê-su muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng trong cơn gian nan hoạn nạn, Người luôn hiện diện: “Thầy đây, đừng sợ”. Một lời trấn an bảo đảm mạnh mẽ rằng Người luôn đồng hành với họ trên bước đường loan báo Tin Mừng, mặc dầu sóng biển ầm ầm, thủy triều sóng nước dâng cao… con thuyền có bị sóng đánh dập vùi, nhưng hãy yên tâm vì có Người ở bên.
Con thuyền của các môn đệ ngày xưa cũng chính là con thuyền cuộc đời của mỗi chúng ta hôm nay. Giữa bao sóng gió cuộc đời của kiếp người trong cuộc lữ hành đức tin.
Khi Đức Giê-su lên thuyền, gió liền lặng. Nếu trên cuộc đời của mỗi chúng ta có Chúa Giê-su, thì sự dữ, ma quỷ sẽ bị đẩy xa. Bởi khi ánh sáng tới, thì tất yếu bóng tối sẽ bị đẩy lùi…
…
Ví dụ 2: Đường dẫn vào Nước Trời – Lc 13,22-30
Chúa Giê-su dạy phải đi qua cửa hẹp mới vào được Nước Trời, nhưng đã là “cửa hẹp” thì muốn vào phải có ít nhất những điều kiện sau đây:
Phải “khom người lại” chui mới lọt, nghĩa là hạ mình xuống sống khiêm tốn chứ không phải tự cao tự đại. Hãy học lấy Chúa Giê-su là Đấng hiền lành và khiêm nhường đã tự hạ mình từ Thiên Chúa xuống làm một con người hữu hạn nghèo khó.
Phải “giảm cân” cho mình nhỏ lại mới chui qua được, nghĩa là biết trở nên con người nhỏ bé đơn sơ, tránh vơ vét để làm cho mình kềnh to ra vì giàu sang ích kỷ, tránh tham lam quyền lực và tiền của…
Phải “bỏ bớt hành lý” thì mới dễ chui vào, nghĩa là bỏ bớt những gì làm ta vướng bận và lấn át chúng ta, như đam mê công việc mà bỏ bê việc lành, đam mê tình cảm mà sinh ra tội lỗi, ham thích vui chơi mà quên cả trách nhiệm Ki-tô hữu…
“Cửa hẹp” đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở. Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại” (Lc 13,25) thì không cách gì, không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh phúc vĩnh hằng.
Bao lâu còn cơ hội và được các mục tử rao giảng, được học hỏi Tin Mừng, được Giáo hội kêu mời sống thánh thiện, được đón nhận các Bí tích và được gặp Chúa mỗi ngày nơi phép Thánh Thể… chúng ta không quan tâm, rồi sẽ đến lúc cửa đóng lại khi chúng ta lìa đời, lúc đó dù chúng ta mang trên mình ấn tích Rửa Tội để nói với Chúa là người có đạo, đã từng cùng với mọi người đồng bàn dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, nhưng vì trước đó chúng ta đã ơ hờ nguội lạnh, thì giờ đó Chúa sẽ bảo không biết ta là ai…
Cái chết đến sẽ là một sự dứt khoát vĩnh viễn, vì thế đừng ai cứ cho phép mình bê trễ việc đạo đức, mải mê thế sự mà không lo sống đạo, tự tin ỷ lại cho đến lúc già rồi mới trở về với Chúa. Cái chết sẽ đến bất thình lình, đó là khi cánh “cửa hẹp” sẽ đóng lại vĩnh viễn với con người và họ sẽ phải đi vào cõi chết muôn đời. Mọi người phải tự cố gắng qua cửa hẹp, chứ không thể ai thay thế qua cửa hẹp giùm cho mình được… Và rồi, khi không lo gắng sức lập công lúc còn sống, thì khi cửa hẹp đã đóng lại sau cái chết, thì mọi việc cầu nguyện hay xin lễ cũng chẳng còn giúp được gì cho kẻ đã hư đi đời đời…
(Lễ Thánh Gia, có thể soạn theo phương pháp này).
…
d, Phương pháp móc xích (khá giống với phương pháp sợi chỉ đỏ).
Soạn theo kiểu móc xích là tạo ra từng câu ý mà có kết cấu vô cùng chặt chẽ với nhau, câu trước liên kết với câu sau, đan xen nhau và thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại ý nghĩa, một vài từ ngữ đã xuất hiện ở câu trước vào câu sau, không nhất thiết phải có câu chủ đề.
Ví dụ 1: Về sự nên một trong hôn nhân – Lễ hôn phối – St 2,18-24; Cl 3,12-17; Mt: 19,3-6.
Ý muốn của Thiên Chúa, mong muốn của Giáo hội, cầu chúc của mọi người trong Giáo xứ, ước mong của các bậc cha mẹ hai họ, và cách riêng của các anh chị em lãnh bí tích hôn phối hôm nay – khao khát của các con là nên một với nhau trong một thân thể, một lòng và một ý với nhau, để kiến tạo hạnh phúc trăm năm.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay mời gọi cách riêng các con sự nên một đó.
Lời Chúa trong sách Sáng Thế: “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể”. Sự nên một thân thể này, là trở nên một xương một thịt, là “chất thể của bí tích hôn nhân”, nghĩa là việc hai người về với nhau sau khi đã thề hứa trước mặt Chúa và Giáo hội, thì việc ăn ở với nhau trở thành một quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận dành cho nhau, trong sự cộng tác sáng tạo với Thiên Chúa, phát triển Giáo hội, nối dõi tông đường, và kiến tạo hạnh phúc gia đình. (mở rộng giải thích thêm về việc ăn ở với nhau… không phải là tội, mà là bí tích).
Để nên một được với nhau, thì cần “mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự anh em hãy có đức yêu thương, đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Nguyện xin bình an của Đức Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới “hưởng thụ” để làm nên một thân thể”, như lời thánh Phao-lô kêu gọi trong thư Cô-lô-sê mà chúng ta vừa nghe. (mở rộng thêm về từng đức tính trong ý này…)
Chính nhờ lòng từ bi, nhẫn nại, tha thứ và yêu thương, mà anh chị em mới có thể chung thủy được với nhau trọn đời, như lời Chúa Giê-su dạy: “Bởi lẽ đó, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và luyến ái vợ mình, và cả hai sẽ thành nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn phải là hai, nhưng là một huyết nhục. Vậy điều gì mà Thiên Chúa đã liên kết, con người không được tháo gỡ.” (có thể mở rộng giải thích các hạn từ ly dị, ly thân, ngăn trở…).
Tóm lại, hôn nhân là nên một. Chẳng ai tự ghét mình bao giờ, chẳng ai tự hại mình bao giờ, chẳng ai đánh chính mình bao giờ…? Nhưng hãy yêu lấy chính chồng mình, thương lấy chính vợ mình, hãy lo vun đắp, nâng niu, chăm sóc chính “xương tôi đây, thịt tôi đây”. Cầu chúc cho các anh các chị chuẩn bị cử hành với nhau bí tích hôn phối nên một mãi mãi với nhau.
Ví dụ 2: Yêu như Chúa yêu – Lễ hôn phối – Ga 15,12-16
Tình yêu không thể diễn tả được hết bằng ngôn từ, nhưng là sự cảm nhận rất riêng của mỗi người trong sự rung cảm của trái tim mà không bị lệ thuộc của bất cứ ranh giới nào. Tuy nhiên, chúng ta có một tiêu chuẩn để diễn tả tình yêu đích thực là tuân giữ điều răn yêu thương của Chúa dành cho tha nhân, yêu thương một cách vô vị lợi, không so đo tính toán thiệt hơn, mà là YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU khi sẵn sàng hi sinh cả tính mạng vì bạn hữu.
Để có thể hi sinh cho nhau, hai người phối ngẫu cần biết hướng về nhau trong mọi sự, bỏ đi những rào cản ngăn cách làm cho tình yêu của hai người.
Thiên Chúa là tình yêu, mà Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, thì cũng có thể nói “tình yêu ở khắp nơi”. Nghĩa là tình yêu có đó, nên không cần phải đi tìm kiếm tình yêu, mà hãy phá đi những bức tường ngăn cách, thì tình yêu tự khắc sẽ đến, nghĩa là yêu thì mở lòng ra để đón nhận nhau và hướng vào nhau.
Tình yêu trước hết là họa lại tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa: Ba Ngôi luôn hướng về nhau đến nỗi nên MỘT, và cùng hướng về nhân loại trong sáng tạo, cứu độ và canh tân, nên thành BA.
Văn hào Exupery nói: “Yêu nhau là nhìn nhau và cùng nhìn về một hướng”.
Hai người yêu nhau nên trước hết phải biết hướng vào nhau để NÊN MỘT với nhau cả trọn vẹn con người, cả thân xác và tâm hồn. Sau đó, cả hai cùng hướng về một hướng đi, một TƯƠNG LAI, một mục đích… Đừng chồng đàng đông vợ đàng tây, anh ý này chị ý nọ, ông nói này bà nói kia…
Ca dao Việt Nam cũng có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”…
…
Tóm lại, hôm nay Chúa mời gọi chúng ta, cách riêng… hãy biết yêu như Chúa đã yêu, là luôn biết hướng vào nhau nên một lòng một ý, và cùng nhau hướng đến một tương lai tốt đẹp như lòng Chúa mong ước.
e, Phương pháp tổng-phân-hợp
Tổng – phân – hợp là đoạn văn có sự phối hợp cả diễn dịch và quy nạp. Câu mở đầu đoạn nêu lên được ý khái quát bao trùm toàn bộ nội dung của toàn đoạn, các câu tiếp theo sẽ triển khai ý và câu kết là ý khái quát lại một lần nữa toàn bộ nội dung bao trùm cả đoạn văn, mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu trong đoạn văn được triển khai bằng cách thực hiện lập luận, minh chứng, bình luận, nhận xét… để từ đó đề xuất được những quan điểm cá nhân, khẳng định vấn đề.
Ví dụ 1: Chân lý về bánh hằng sống – Ga 6,30-35
Mở đầu bài Tin Mừng, dân chúng đòi Chúa Giêsu một dấu lạ để tin Người là Đấng Thiên Sai. Họ muốn Chúa Giêsu cho ăn bánh không chỉ một lần như Người vừa mới hoá bánh ra nhiều để họ được no nê, mà muốn được ăn mãi như ngày xưa Môsê đã xin Chúa nuôi dân Israel bằng man-na suốt bốn mươi năm. Đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm của dân chúng về Đấng Thiên Sai, vì họ chỉ tìm kiếm một vị chúa thoả mãn sự lười biếng của họ, là ngồi chờ sung rụng không phải làm mà hàm cứ muốn nhai. Trong khi Chúa Giêsu lại muốn họ không phải chỉ tìm kiếm thứ man-na nuôi thân xác sẽ chết, mà là Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng tâm hồn đạt đến sự sống đời đời.
Nhớ lại xưa kia, khi dân Israel đi trong sa mạc và thiếu thốn mọi thứ, Thiên Chúa ban cho họ thức ăn “từ trời xuống” là man-na. Nhưng nếu coi Thiên Chúa chỉ là ân nhân và nếu hễ đến với Người là xin xỏ cái này cái kia, thì cuối cùng con người chỉ chú tâm đến cái Thiên Chúa ban cho; may lắm là biết cảm tạ Người rồi sau đó lại tiếp tục than van kêu trách và chán ngấy. Đó là điều dân Israel đã làm, vì sau khi nhận được man-na, họ vẫn nổi loạn chống lại Thiên Chúa và chết trong sa mạc. Thật vậy, những của cải vật chất, cho dù là của trời cho, chẳng làm cho chúng ta tốt hơn, vì nó không thể đem lại sự sống đích thực. Con người không có sự sống tự nơi mình, nên phải không ngừng lấy từ bên ngoài những gì cần thiết để duy trì sự sống, nhưng rồi đến một ngày sự sống lệ thuộc kia phải chấm dứt vì con người chưa tìm được lương thực thường tồn.
Vì vậy, Thiên Chúa ban một quà tặng mới: bánh từ trời xuống không phải là một vật gì đó mà là một Ai đó. Đức Giêsu là quà tặng cao quý nhất mà Chúa Cha ban tặng cho con người. Người là Bánh Sự Sống, là nguồn sống và là sự sống đích thực. Bánh sự sống đích thực này ban lại sự sống đời đời. Nhưng để nhận được Bánh ấy, mỗi cá nhân cần có thái độ đáp ứng riêng của mình với Chúa Giêsu Kitô là tin vào Người.
Tóm lại: Sự sống thể lý không phải là sự sống tự thân mà là sự sống lệ thuộc, nghĩa là nó cần đến lương thực vật chất nạp vào để duy trì, nhưng vì nó hữu hạn, nên sẽ đến lúc sự sống đó không thể thâu nạp được lương thực nữa nó sẽ èo ọt yếu ớt và chết. Còn sự sống thần linh là sự sống siêu nhiên Chúa ban, tuy không chết, nhưng rất cần được nuôi dưỡng bằng Bánh Sự Sống là Thánh Thể, mà Thánh Thể chính là sự sống tự thân nơi Chúa Kitô thông truyền cho linh hồn chúng ta. Nhờ rước lấy Chúa Kitô mà Kitô hữu được mạnh mẽ và tăng trưởng, không sợ tội lỗi hay ma quỷ có thể xâm nhập và làm tổn hại linh hồn.
…
Ví dụ 2: Hiển Linh – Hiển Dung – Hiển Trị – Mt 17,1-9
Tin Mừng tường thuật về biến cố Chúa Hiển Dung. Đây được coi là một biến cố then chốt trong hành trình cứu độ của Chúa Giêsu nhằm vừa khẳng định vừa nâng đỡ cho hành trình đức tin của các môn đệ và mỗi Kitô hữu chúng ta: Hiển Linh – Hiển Dung – Hiển Trị (tỏ mình bắt đầu sứ vụ, một sự mặc khải để nâng đỡ đức tin và tử nạn Phục Sinh).
Một chi tiết giàu tính biểu tượng là sự hiện diện của hai khuôn mặt lớn trong Cựu ước: Môsê và Êlia, là hai nhân vật tóm tắt tất cả Lề Luật Môsê) và các ngôn sứ (Êlia). Hai nhân vật này tượng trưng cho Luật và các ngôn sứ, hai cánh cửa chính của Thánh Kinh trong đó đã loan báo Chúa Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Người. Sự hiện diện của các ngài là chứng cớ sống động rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về tương lai của Người hoàn toàn phù hợp với Thánh Kinh. Môsê là con người của cuộc Xuất hành, của núi Si-nai và của cuộc vượt qua Biển Đỏ; còn Êlia tiên tri lớn đã phải chịu đau khổ vì Thiên Chúa và vì dân tộc trước khi được cất lên trong đám mây… Như một Êlia mới, Đức Giêsu cũng được mời gọi chịu đau khổ trước khi được “cất lên” (9,51) trong vinh quang thiên quốc, Người cũng là Môsê mới trong cuộc Xuất hành mới, trong lễ Vượt Qua mới của một Giao ước mới, sẽ vượt qua biển sự chết để giải phóng dân Người và dẫn đưa họ đến Đất sự sống đời đời.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabo hé lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho các ngài nếm thấy trước vinh quang để chấp nhận con đường đau khổ của Người sắp trải qua.Các môn đệ cần được nâng đỡ qua biến cố hiển dung này, vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi khác, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu, sẽ đầm đìa mồ hôi và máu, quần áo của Người sẽ không còn chói sáng nữa, mà sẽ bị lột khỏi thân mình Người. Đức Giêsu sẽ có hai tên trộm cướp làm bạn đồng hành. Sẽ không có tiếng nói phát xuất từ trời nữa, nhưng chỉ có những giọng nói chế giễu và nhạo báng mà thôi. Các môn đệ sẽ bị tản mác, và không muốn tham dự vào những sự việc đang diễn ra. Biến cố biến hình còn cho các môn đệ niềm hy vọng, là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc, cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục Sinh hân hoan. Tựa như học sinh kiên nhẫn và miệt mài đèn sách vì hy vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp, như nông phu thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa cấy cày vì hy vọng vào mùa gặt bội thu… Niềm hy vọng vào vinh quang Phục Sinh sẽ giúp các môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi nhục của Thầy chí thánh.
Hành trình đức tin có những lúc lên cao khi cảm thấy đầy an ủi và hạnh phúc, nhưng cũng có lúc xuống sâu trong thử thách đau thương, cho tới ngày được hiển trị với Chúa trong vinh quang đời đời.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên Chúa. Bên trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục Sinh vinh quang. Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Sứ điệp này cũng liên hệ đến cuộc đời chúng ta là giống như Đức Kitô, mỗi người chúng ta cũng có hai chiều kích, một thuộc về nhân tính, một thuộc về thiên tính. Mỗi người chúng ta đều mang trong mình một nét giống Ađam và một nét giống Thiên Chúa. Chúa Giêsu trong trong kiếp phàm nhân đã cảm nhận những phút vinh quang biến hình thì cũng đồng thời sau đó cảm nhận sự thê thảm của sự tủi nhục, thì cuộc đời Kitô hữu chúng ta cũng thế. Những lúc đó, hãy nhìn lên Chúa để cùng hiệp thông với Người, như thánh Phaolô nói: Nếu chúng ta cùng cam chịu như Người, thì cũng sẽ chia sẻ vinh quang với Người.
Phêrô cứ muốn được ở lại trên núi. Ông muốn xây dựng một thiên đàng an toàn tại đó, cách xa khỏi tất cả những rắc rối và nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuộc biến hình này không phải để khuyến khích họ trốn thoát thực tại, mà để khích lệ và củng cố Đức Giêsu và các Tông đồ nữa, để họ có khả năng quay trở lại, hầu đương đầu với những rắc rối và nguy hiểm mà họ đã để lại phía sau. Phêrô muốn được ở lại trên đỉnh núi, muốn được khư khư giữ lấy ân sủng của cảm nghiệm này. Ông không muốn quay trở lại với cuộc sống hằng ngày và những thứ thông thường nữa, nhưng cứ muốn được mãi mãi ở lại trên vùng đất đầy niềm say mê phấn khích đó. Nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi ông xuống núi, và đối diện với tương lai. Cảm nghiệm này không có ý tạo ra một sự trốn thoát khỏi cuộc đấu tranh đang nằm ở phía trước, nhưng là để giúp Người sẵn sàng đương đầu với cuộc đấu tranh đó. Giây phút đầy ánh sáng, là để giúp Người đương đầu với giây phút đầy bóng tối.
Cũng như Phêrô và các môn đệ trong biến cố biến hình hôm nay, mỗi người chúng ta ai cũng muốn được ở trên đỉnh vinh quang, nhưng lại không muốn đối diện với thực tế của cuộc đời, và muốn trốn tránh kiếp lữ hành trần thế, muốn trốn tránh thập giá là con đường duy nhất đưa đến sự phục sinh. Chúa Giêsu hôm nay vừa tỏ cho chúng ta thấy viễn cảnh Phục Sinh để nâng đỡ niềm tin cho chúng ta và cho chúng ta một niềm hy vọng chắc chắn về đời sống vĩnh hằng, nhưng Người mời gọi chúng ta phải xuống núi: xuống núi vừa để giúp những người khác thêm niềm tin và hy vọng, xuống núi để tiếp tục cuộc lữ hành trần thế tiến về quê Trời.
Tóm lại: biến cố Hiển Dung nhằm nâng đỡ cho hành trình đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta. Hành trình đức tin có những lúc lên cao khi cảm thấy đầy an ủi và hạnh phúc, nhưng cũng có lúc xuống sâu trong thử thách đau thương, cho tới ngày được hiển trị với Chúa trong vinh quang đời đời.
f, Phương pháp dùng từ khóa.
Là gặp thấy một từ trùng lặp trong cùng một bài hay trong các bài đọc ngày hôm đó, hoặt tìm thấy những từ cho các bài đọc mang tính liên tục trong một nội dung, hoặc do chủ đề cần nói với người nghe mà nối kết với các bản văn Lời Chúa tương tự.
Ví dụ 1: Sống – Lễ cầu hồn – G 19,1.23-27; Rm 6,3-9; Ga 6, 51-59
Với nhưng gì chúng ta nghe trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta gặp thấy một từ chung cho tất cả, đó là “SỐNG”.
Bài đọc I, ông Gióp xác tín rằng: “Đấng cứu chuộc hằng sống… sau khi thân xác tôi tiêu hủy, tôi sẽ được sống…”
Bài đọc II, thánh Phao-lô nói: vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.
Bài Tin Mừng, Chúa Giê-su nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”.
Như thế, Lời Chúa hôm nay chung một sự tín thác, Thiên Chúa sống, Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, và con người sống nhờ tin vào Thiên Chúa, và vì thế, chết chỉ là một sự chuyển tiếp đi vào sự sống mới, sự sống đó vĩnh cửu không còn chấm dứt nữa.
Sự sống vĩnh cửu đó được bắt đầu từ sự sống hiện tại nơi dương thế của chúng ta. Không thế đạt đến sự sống vĩnh cửu nếu không kinh qua sự sống trần gian. Vì thế, đang khi chuẩn bị cho đời sống mai hậu, chúng ta cần sống tốt và sống tròn đầy cuộc sống trần thế này qua ba tương giao:
Sống trong tình người,
sống trong tình đời,
sống trong tình Trời.
Sống trong tình người: – không ai là một hòn đảo – được bao bọc bởi tình thương cha mẹ, người thân, họ hàng, láng giềng, xứ đạo, đất nước… (nếu lễ an táng, kể thêm về người quá cố…).
Sống trong tình đời: Bao lao công vất vả, nghề nghiệp làm ăn, lo xây dựng cuộc sống (nếu lễ an táng, kể thêm về người quá cố…).
Sống trong tình Trời: Làm Ki-tô hữu, sống đạo và được chịu các bí tích, tham dự thánh lễ, các sinh hoạt đạo đức… được hưởng bao ơn huệ Chúa ban (nếu lễ an táng, kể thêm về người quá cố trong việc sống đạo, làm Ki-tô hữu N… năm…).
…
Ví dụ 2. Thông phần với cuộc thương khó Chúa Giê-su để cứu độ – Ga 12,31-34
Khác với Tin Mừng Nhất Lãm, Tin Mừng thứ IV đòi hỏi một cách quyết liệt hơn, không những chỉ vác thập giá, mà còn phải bị treo lên, phải được giương cao lên, nghĩa là phải đóng đinh mình vào thánh giá Chúa.
Có thể nói, ba lần Chúa Giê-su nói “bị giương cao lên”, hay bị “treo lên”, là ba lần tiên báo thương khó theo cách nói của Gio-an, khác với Nhất Lãm (x. Ga 3,14; 8,28; 12,32). Ba lần Chúa Giê-su nói “giương cao Con Người lên…” tính quyết liệt tăng lên một cấp độ mới.
Lần 1: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (Ga 3,14). Điều này cho thấy, khi Chúa Giê-su được treo lên, thì Người đã làm ứng nghiệm những gì được tiên báo về Người. Cũng vậy, người đi theo Chúa phải được treo lên, lúc đó mới làm ứng nghiệm điều Chúa dạy.
Lần 2: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Tôi hằng hữu, Ta là Ta, Ta Có (chỉ có Chúa Giê-su mới lặp lại điều này như Đức Chúa nói với Mô-sê trong sách Xuất Hành 3,14)… Nghĩa là khi Chúa Giê-su được treo lên, Người mới thật là Đức Chúa. Cũng thế, người theo Chúa khi và chỉ khi được “treo lên”, thì mới thật là Ki-tô hữu. Tu sĩ mới là tu sĩ, tôi mới là tôi…
Lần 3: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Chúa Giê-su chấp nhận bị treo lên thì Người mới kéo được mọi người lên với Người. Cũng vậy, chúng ta không thể kéo được mọi người lên nếu chúng ta chưa chấp nhận “treo lên”. Truyền giáo không gắn liền với thập giá, thì đừng mong cứu được ai.
Như vậy, theo cách diễn tả của Gio-an, theo Chúa cần phải đóng đinh chính mình vào thập giá Chúa, phải chấp nhận sự treo lên: chấp nhận bị treo lên mới giống Chúa, treo lên mới là chính mình với bản chất Ki-tô hữu và ơn gọi của mình, và có chấp nhận treo lên mới lôi kéo được người khác đến với Chúa.
g, Phương pháp rút gọn thành những từ dễ nhớ.
Là người giảng lễ tổng hợp giản lược ba hay bốn từ rút gọn để giúp giáo dân dễ nhớ.
Ví dụ 1: Làm con Chúa – Lễ cầu hồn – G 14:1-3,10-15; Rm 6,3-9; Ga 6,37.39-40
Cùng với những bài đọc Lời Chúa hôm nay, và sự ra đi trở về nhà cha của…, chúng ta cùng chia sẻ về cuộc đời của một con người, với ba lần sinh ra: Ngày sinh nhật vào đời, ngày sinh ra làm con Chúa qua Bí tích rửa tội, và ngày sinh ra trong nước trời là lúc từ giã cuộc đời trần thế này. Nói cách tóm tắt là: làm người, làm Ki-tô hữu và làm thánh. Và ba cuộc sinh ra đó, chung một điểm duy nhất là làm con Chúa.
Để dễ nhớ, xin đưa ra ba chữ làm: Làm người, làm Ki-tô hữu, làm thánh:
Làm người: Bài đọc I, trích sách Gióp. Ông Gióp nói về việc sinh ra trong thân phận làm người: “Con người do phụ nữ sinh ra, tuổi đời ngắn ngủi, mà âu lo chồng chất. Tựa đóa hoa mới nở đã tàn, con người qua mau, khác nào bóng câu qua cửa sổ…” (G 14,1-2). Làm người, một thân phận sống trong thời gian hữu hạn, được ví như đời tạm mau qua. Ông Gióp đã cảm nhận: Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn. Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới mùa đông giá lạnh. Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi, như chúng ta vừa hát trong bài đáp ca Thánh vịnh 102,15: “Đời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa sớm nở tối tàn, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến tan…”.
(Ông/bà/anh/chị X… đã sinh ra và sống trong thân phận làm người như mỗi chúng ta được N… năm, nay đã được Chúa gọi, với biết bao dang dở hoài bão chưa thực hiện…).
Làm Ki-tô hữu: Thánh Phao-lô nói trong Bài đọc II: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,3-4).
Để hiểu hơn về việc làm con Chúa, mà Ki-tô hữu chúng ta đã được lãnh lấy từ khi chịu phép rửa tội, thiết nghĩ chúng ta cũng cần nắm vững một chút về ý nghĩa của việc chúng ta đến rửa tội, không hiểu theo nghĩa tiêu cực là rửa tội nguyên tổ, mà là ĐƯỢC LÀM CON CHÚA.
Sách GLCG cũng định nghĩa, phép Rửa tội là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giê-su, đã phục hồi sự sống siêu nhiên và ban lại quyền làm con Chúa).
(Nghe đến đây, chúng ta thấy được khích lệ dường nào, được an ủi dường nào, niềm hi vọng chắc chắn, vì ô/b X… đây, và mọi người chúng ta đây đều đã được rửa tội, nghĩa là được làm con Chúa, thì chắc chắn chúng ta rất hạnh phúc vì có Chúa là Cha, và chẳng có người Cha nào lại không đón con của mình về hưởng hạnh phúc trên thiên đàng).
Làm thánh: Chúa Giê-su nói trong Tin Mừng Gioan: ““Những ai Cha đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất người nào”. Đây không chỉ là lời khẳng định mà còn là niềm hy vọng tràn trề cho chúng ta và cho các linh hồn. Chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào lời hứa của Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Tin tưởng vào lời khẳng định của Chúa Giêsu dành cho các kẻ tin. Người Công Giáo chúng ta khi báo tử thường sử dụng câu “Chúa gọi về” để nói lên niềm tin là về với Chúa, là làm thánh, như trong lời nguyện lễ cầu hồn: Xin cho X… được nhập đoàn các thánh trên trời…
Ông/bà X… là một trong những người con mà Chúa Cha ban cho Chúa Giê-su, thì không lẽ nào Chúa Giê-su lại để hư mất, như lời Người đã nói. Vì thế, chúng ta ký thác X… cho Chúa Giê-su trong mầu nhiệm thánh lễ hôm nay, để X… được hợp đoàn với các thánh trên trời ca tụng Chúa muôn đời.
Tắt một lời, dù ba lần sinh ra: Làm người, làm Ki-tô hữu, và làm thánh, thì chung quy lại đó là LÀM CON CHÚA.
Như vậy, hôm nay đây, X… được sinh ra trong vĩnh cửu, sinh ra không còn để làm người nữa mà là để làm thánh, nghĩa là được kết hiệp trọn vẹn với Chúa trên trời, là Cha mà bà đã sống tình con thảo khi còn tại thế.
Trong sự hiệp thông, chúng ta cùng chung một Cha trên trời, chúng ta cùng xin cho người chị em của chúng ta được sớm về với Cha trên trời.
(Cũng theo cách này, có thể nói về: Sống trong tình người, trong tình đời và trong tình trời).
Ví dụ 2: Lệnh truyền cho thừa sai – Mt 10,6-15
Bài Tin Mừng hôm nay đặc biệt họa lên chân dung của một vị Tông Đồ của Chúa Giê-su trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, là: Mang sứ điệp Nước Trời, chữa lành người đau yếu, sống khó nghèo và đem bình an đến cho mọi người.
Chúa Giê-su sai mười hai Tông Đồ đến nơi nào? Dặn dò các ông mang thứ gì? Truyền cho các ông phải nói gì? Và bảo các ông phải làm gì? Đó là những gì chúng ta cùng nhau chia sẻ:
Đi đâu? Các Tông Đồ được sai đến trước hết dành cho chiên lạc nhà Israel (x. Mt 10,7). Điều này cho thấy sứ mạng tại thế ban đầu của Chúa Giê-su là: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel” (Mt 15,24), nghĩa là ơn Cứu Độ đầu tiên đến từ dân Do-thái bởi Chúa Giê-su đã nhập thế làm một người Do-thái nên đã ưu tiên quy tụ “những con chiên lạc” trước. Lúc sai các Tông Đồ đi truyền giáo Chúa Giê-su cũng muốn các ngài tiếp nối điều này “Hãy đến với chiên lạc nhà Israel” (Mt 10,6). Đây không phải là một sự phân biệt dân Do-thái hay dân ngoại, mà là một sự tiệm tiến bắt đầu từ dân Do-thái trở đi. Sau này, mệnh lệnh được truyền cho các Tông Đồ qua thánh Phêrô phải đi rao giảng cho cả dân ngoại cách chính thức qua thị kiến “chiếc khăn buộc túm bốn góc chứa đầy bò sát mà Phêrô được mời gọi làm thịt mà ăn” (x. Tđcv 11,1-8). Thánh Phaolô cũng nói về điều này với người Do-thái: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Tđcv 13,46).
Nhiều người chúng ta vẫn mơ tưởng là phải đến nơi nào đó xa xôi băng rừng vượt suối để rao giảng Tin Mừng, nhưng lại quên mất rằng ngay bên cạnh nhà chúng ta đang ở, bạn cùng lớp chúng ta đang học, người cùng phòng chúng ta nơi công sở, làng xóm bên cạnh giáo xứ chúng ta là lương dân. Lại nữa, chúng ta mong đưa về cho Chúa những con chiên mới, những những con chiên lạc của giáo xứ chúng ta đang cần được giúp đỡ chúng ta lại không biết…
Mang gì? “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy” (Mt 10,9-10).
Chúa Giê-su không bảo vô sản, không chủ trương tìm sự thiếu thốn vật chất, nhưng có một giá trị nội tâm, nó giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc với của cải trần thế, và mở rộng lòng mình ra trước sự giàu có tinh thần. Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh rằng, đừng để cho vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ và chi phối mình.
Chúa muốn nhà truyền giáo phải dựa vào ơn Chúa trước khi dựa vào tiền bạc, dựa vào sự trợ giúp của Chúa hơn là sự trợ giúp của phương tiện vật chất. Chính ơn Chúa mới đem lại sự bình an thanh thoát trong tâm hồn. Sự từ bỏ, quên mình hoàn toàn mới chu toàn được sứ vụ rao giảng. Đi truyền giáo mà với đầy dẫy những thứ cồng kềng vướng bận thì khó mà toàn tâm toàn ý lo cho sứ vụ, bon chen và ham mê công việc lấn át hết thời giờ cho Chúa.
Hơn nữa, loan Tin Mừng cốt yếu là làm chứng cho Chúa Giê-su, mà Chúa Giê-su đó đã sinh ra trong khó nghèo, sống kiếp nghèo và chết trong sự trần trụi trên Thập Giá. Vì thế, nếu đời sống của người rao giảng không thể hiện được tinh thần nghèo sẽ tự nó trở nên phản chứng.
Nói gì? Sứ điệp mà Chúa Giê-su muốn rao giảng là: “Hãy nói với họ rằng Nước Trời đã gần đến” (Mt 10,7). Rao giảng Tin Mừng là làm cho muôn dân trở thành môn đệ, trở về làm con Chúa, trở thành anh em một nhà… và như vậy, vương quốc Nước Trời đã chính thức hình thành ngay trên trần gian này.
Cùng với việc rao giảng Nước Trời là đem bình an đến cho những ai đón nhận Tin Mừng: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, thì -bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em” (Mt 10,12-13). “Bình an cho nhà này”. Dựa theo Thánh Kinh Cựu Ước, ta nhận thấy văn hoá giao tiếp vùng Trung Cận Đông thường dùng câu “bình an” để chào hỏi nhau khi gặp mặt. Sứ điệp bình an cũng được các thiên thần hát lên khi Chúa Giê-su Giáng Sinh. Và bây giờ, khi sai các môn đệ đi truyền giáo, tiên vàn hãy đem bình an đến cho mọi người. Sự xuất hiện của các chứng nhân Tin Mừng là đem đến cho con người sự bình an đích thực của Chúa, phá tan những lo âu, chia rẽ và hận thù.
Làm gì? “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).
Cùng với việc rao giảng, các Tông Đồ nhận được năng quyền chữa lành để vừa củng cố niềm tin, vừa đẩy lui quyền lực của sự dữ và ma quỷ.
Có thể hiểu đến năng quyền được ban cho các mục tử qua các Bí tích để sức mạnh của ma quỷ không thể cản trở được công việc loan báo Tin Mừng. Đặc biệt, qua Bí tích Hòa Giải, các mục tử chữa lành bệnh tật và thương tích tâm linh cho các tâm hồn.
Tất cả đều được lãnh nhận nhưng không từ nơi Chúa chứ không do sức riêng mình, nên Chúa cũng mời gọi các Tông Đồ cho đi một cách nhưng không mà không đòi hỏi được đền đáp.
Rao giảng và chữa lành là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Hay nói cách khác, Tin Mừng và cuộc sống liên kết với nhau, đời sống tôn giáo và phát triển xã hội cùng song hành.
(Có thể ví dụ về các từ: Làm chủ, làm lễ, làm chứng // Vương đế, tư tế, ngôn sứ…)
h, Phương pháp đặt câu hỏi.
Có những bài Lời Chúa khi đọc lên thì có thể ngay lập tức tạo cho người nghe một vấn nạn. Vì thế, vị giảng lễ có thể đưa ra vấn nạn và giúp giải đáp cho người nghe. Tuy nhiên, vị giảng lễ phải chắc chắn giải đáp được và đưa đến được bài học cho người nghe, chứ không phải đánh đố hoặc bỏ lửng, chỉ gây hoang mang thêm cho giáo dân.
Ví dụ 1: Bình an và chia rẽ – Mt 10,34-11,1
“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).
Nghe có vẻ ngược đời, nhưng sự chia rẽ ở đây nói lên một sự lựa chọn cho người môn đệ. Những ai dám sống và hành động theo con đường Chúa Giê-su, thì thường bị người đời coi là dại dột, là ngu xuẩn, là điên rồ, thậm chí còn bị ghen ghét hoặc bị bách hại đủ kiểu. Vì thế, người đòi môn đệ phải sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ mà Chúa Giê-su phải chịu. Vì thực tế sẽ có sự chia rẽ từ trong các gia đình: trong cùng một nhà mà có những người tin Chúa và có kẻ lại không tin. Nhưng ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được ơn cứu độ
Sự giằng co chia rẽ xảy ra trong nội tâm từng người, cũng như trong cả tập thể xã hội. Có những người sẽ đứng lên chống báng một sự cứu rỗi mà họ cho là tiêu cực, là hạ đẳng, là ‘thuốc phiện của quần chúng’. Tin Mừng do đó không cho phép tồn tại một sự yên ổn bình thân.
Bình an theo đường lối Đức Giê-su là sự hiệp nhất có được do mọi người thuận theo thánh ý duy nhất của Chúa. Để có được thứ bình an này, con người phải can đảm cùng bước ra khỏi bóng tối sự dữ để đến với anh em, dám dứt khoát nói “không” với cám dỗ, dám lội ngược dòng với khuynh hướng thấp hèn. Đức Giê-su đến như ngọn lửa tạo ra vùng trời ánh sáng đó cho ta.
“Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy » (Mt 10,37).
Phải chăng Chúa Giê-su đặt ra một điều kiện của Chúa quá khó? Sở dĩ Người đưa ra điều kiện như vậy để nói lên một sự dứt khoát chứ không phải nửa vời. Người không khuyến khích việc vô ơn bất hiếu với cha mẹ, hoặc phải sống vô tâm vô tình với người thân, nhưng là Người muốn nhấn mạnh đến sự ưu tiên chọn Chúa là trên hết và Người đòi hỏi sự so sánh hơn kém khi phải chọn lựa. Nếu phải chọn lựa giữa Đức Giê-su với cha mẹ và người thân, thì những người quyết tâm theo Chúa phải dám chọn Chúa Giê-su là gia nghiệp.
Bỏ cha, bỏ mẹ, vợ con, anh em là bỏ những cái gì ngoài mình, nhưng Chúa còn đòi hỏi hơn nữa là dám bỏ cả mạng sống nếu phải làm chứng cho Chúa.
…
Ví dụ 2: Thịt và Máu Chúa Giê-su là của ăn nuôi linh hồn – Ga 6,52-59
“Làm sao ông này lấy Thịt cho chúng ta ăn được?” Những người Do-thái đa nghi đối với Thiên Chúa trong sa mạc xưa cũng có giọng điệu như thế (x. Ds 11,4.18). Tin Mừng Gioan vốn thích chơi chữ đã đưa vào trình thuật ở đây một ý nghĩa khác, là Chúa Giêsu muốn nói đến việc chia sẻ và thông ban sự sống phục sinh và đã được Thần Khí biến đổi.
Trong văn hóa Híp-ri, thịt và máu chỉ là con người trong thân phận xác đất vật hèn, có sinh có tử. Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận toàn diện “chất người” của Chúa (trong thân phận xác đất vật hèn của nó) làm sở hữu của chúng ta, và “chất người” ấy thông ban cho ta thần tính của nó.
Qua những cử chỉ hữu hình, người tín hữu tham dự vào thực tại vô hình và sống kết hợp với Chúa Kitô Phục Sinh. Giáo hội định nghĩa Bí tích là một thứ hữu hình tượng trưng và sản sinh một thực tại thiêng liêng. Khi tín hữu lấy đức tin mà tham dự vào các Bí tích, họ gặp gỡ Chúa Kitô hằng sống đang đổi mới cuộc đời họ. Trong tiệc Thánh (thánh lễ) các tín hữu thật sự nhận lãnh Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô trong cái chỉ còn là hình thức của bánh và rượu. Chúa Kitô Phục Sinh tự biến mình thành thức ăn nuôi dưỡng cho các tín hữu được sống đời đời (CGKPV).
Lời khẳng định cách tỏ tường và quyết liệt của Chúa Giêsu: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”. Nói lên tầm quan trọng của việc rước Thánh Thể Chúa. Thân xác ăn thứ bánh man-na hữu hạn nên sự sống của thân xác chỉ có hạn; còn linh hồn ăn Thịt Chúa Kitô là sự sống vĩnh cửu nên đạt tới sự sống đời đời.
Lại nữa, Chúa Giêsu dùng hỉnh ảnh sự sống Ba Ngôi để diễn tả sự kết hiệp của Kitô hữu với Người nhờ ăn Bánh Hằng Sống: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”. Chúa Cha và Chúa Con vừa hiện hữu tự thân vừa hiện hữu hướng về nhau đến duy nhất. Thì đây, kẻ ăn thịt Chúa Giêsu thông phần vào sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa, khi hiện hữu hướng về Thiên Chúa và nên một với Người. Chúa Kitô sống, nên kẻ ăn Người cũng sống và sống viên mãn như Người.
(Tại sao ra ngoài đường ngoài sá ép hết vào, rồi lại phạt người ta không mặc y phục lễ cưới? Lạc đà chui qua lỗ kim? Tại sao làm sớm làm muộn cũng đều một đồng? … )
i, Phương pháp chú giải bản văn.
Là chú giải những từ, câu hay đoạn văn mà mình tin rằng người nghe không hiểu. Vì thế, người giảng cần có chuyên môn nhất định. Người chú giải không nhất thiết phải chú giải hết lần lượt các bài đọc, vì có nguy cơ quá dài và người nghe chưa chắc đã lĩnh hội hết, thậm chí họ không còn phân biệt được điều nào cần nhất cho việc Chúa muốn nói với họ hôm ấy. Người giảng dạy cũng có thể chọn một bài Lời Chúa hôm đó để chú giải và rút ra bài học cho thính giả.
Ví dụ 1: Sự quân bình đời sống – Lc 10,38-42.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện việc Chúa Giê-su vào nhà Martha và hai chị em lo lắng phục vụ Người theo từng cách riêng của mình. Người ngồi nghe Chúa nói, kẻ bận bịu chuyện cơm nước hầu Người. Câu chuyện được kể trong Tin Mừng hôm nay rằng, có thể Chúa không trách Mác ta vì chỉ lo chuyện phục vụ, nhưng có lẽ Chúa đã trách yêu Martha vì quá lo chuyện phục vụ và ôm đồm mọi thứ, bởi vì mọi người có phận vụ riêng của mình.
Thật ra, câu chuyện Martha và Maria nói lên hai phận vụ của việc phụng sự Chúa, hai chiều kích của việc rao giảng Tin Mừng, hai linh đạo chính của đời tu (hoạt động và chiêm niệm).
Đừng quá lo lắng việc đời mà quên Chúa: Martha chọn cách lo việc phục vụ, Maria chọn cách ngồi bên chân Chúa nghe Chúa nói. Cả hai việc đều tốt, nhưng khác nhau ở chỗ là Martha đã quá lo lắng bận rộn với công việc, và Chúa Giê-su đã nhắc Martha là quá lo lắng bối rối về nhiều chuyện, mà quên đi sự cần thiết là ở bên Chúa để lắng nghe Lời Chúa.
Ngày hôm nay, không thiếu người trong chúng ta xem trọng “việc Chúa hơn là lắng nghe Chúa”, bon chen lo lắng việc đời và bỏ quên đời sống cầu nguyện và nghe Lời Chúa.
Mong sao, giữa những bộn bề của một ngày sống, chúng ta vẫn ưu tiên những phút giây cho việc đọc và nghe Lời Chúa.
… Nhiều vị lo lắng công trình xây cất cho giáo xứ mà bỏ bê cả đời sống kinh nguyện. Giáo hội cũng đã khôn ngoan đưa vào luật dạy các Giáo Sĩ phải đọc những giờ kinh buộc, để không ai lấy lý do truyền giáo hay lo việc chung mà miễn cho mình những giây phút ngồi bên Chúa. Bởi vì, chính việc đọc và suy niệm Lời Chúa mới có sức nâng đỡ công việc truyền giáo và nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng.
Chọn phần tốt nhất là lắng nghe Lời Chúa: Chính Chúa Giê-su đã khẳng định: Phần tốt nhất chính là ngồi bên Chúa và lắng nghe Người nói.
Hình ảnh cô Maria ngồi nghe Chúa Giê-su hôm nay cho chúng ta một kiểu mẫu khi cầu nguyện, khi gặp gỡ Chúa. Cầu nguyện không chỉ là nói nhiều cho Chúa nghe, mà còn là thinh lặng để nghe Chúa nói với mình.
Khi chúng ta đọc Thánh Kinh, nghe đọc và suy niệm Lời Chúa, là lúc Chúa đang nói với ta. Khi ta ngồi thinh lặng trước Thánh Thể là ta đang lắng nghe nhịp đập yêu thương nơi Trái Tim Chúa. Và trong mọi nơi mọi lúc chúng ta cầu nguyện hay thinh lặng suy gẫm, là lúc chúng ta đang nép mình bên Chúa.
Thật ra, không nên dùng đoạn Tin Mừng này để so sánh về bậc thang giá trị của việc phục vụ và cầu nguyện, hay để cho rằng ơn gọi chiêm niệm hơn ơn gọi hoạt động. Bởi nếu ai cũng như Maria lo ngồi nghe Chúa nói thì lấy ai lo bữa ăn cho Chúa Giê-su và các môn đệ, hay nếu ai cũng như Martha lo chuyện bếp núc thì lấy ai tiếp chuyện với Người. Nhưng cần phải hiểu cách nói của Chúa Giê-su là “tốt nhất” chứ không phải “tốt hơn”, nghĩa là không phải cái này tốt hơn cái kia, mà là mọi người có cách phục vụ Chúa bằng bổn phận riêng của mình được coi là tốt nhất trong ơn gọi mình và đấng bậc mình. Điều đáng trách chính là muốn ôm đồm mọi việc cho mình, lấn vào cả công việc của người khác rồi ganh tỵ với người khác.
Tóm lại, trong việc giữ đạo và sống đạo, chúng ta phải biết làm sao để trung hòa được việc lo toan cho cuộc sống và việc lắng nghe Lời Chúa. Nếu không, lời Chúa được gieo nơi tâm hồn chúng ta sẽ như hạt giống rơi vào bụi gai bị bóp nghẹt, nghĩa là Lời Chúa sẽ bị chết yểu bởi những tân toan lo lắng sự đời.
Ví dụ 2: Của Chúa và của ma quỷ – Mc 5,1-20
Bài Tin Mừng hôm nay là một câu chuyện khá dài về việc Chúa Giê-su đến miền đất dân ngoại, trừ quỷ cho một người đàn ông bị tà thần ô uế ám và cho phép quỷ xuất nhập vào bầy heo…
Không thiếu những người khi nghe bài Tin Mừng này có suy nghĩ tiêu cực về việc Chúa Giê-su cho phép một điều làm tổn hại rất lớn đến kinh tế của người chăn nuôi. Thật ra, đây là một vấn đề mang tính “bút chiến” hơn là tính lịch sử.
Thánh Marcô kể rằng, đây là miền đất của dân ngoại (miền Giênasa) và vùng nghĩa trang; nơi mà dưới cái nhìn của người Do-thái là vùng đất ô uế và đáng chúc dữ.
Lại nữa, người Do-thái coi heo là loài ô uế nhất, cấm ăn thịt heo, ăn thịt heo là bị nhiễm uế, nghề chăn heo là nghề xấu xa tội lỗi. Người bị quỷ ám kia cũng được gọi là do “thần ô uế” ám. Dân ngoại và vùng đất của họ bị người Do-thái coi như là miền đất của sự chúc dữ, của chết chóc và của sự ô uế, chỉ xứng với loài heo.
Chính vì thế, ý nghĩa của việc chữa lành của Chúa Giê-su dưới ngòi bút của thánh sử Marcô là nói lên việc Chúa Giê-su không xa lánh mà dấn thân vào nơi được coi là xấu xa nhất để cứu con người, Người đến tận cùng của sự uế nhơ tội lỗi và sào huyệt của ma quỷ để kéo con người ra khỏi đó. Trong Chúa Giê-su thì không còn sự phân biệt Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do…
Một ý nghĩa rất quan trọng nữa là một mình Chúa Giê-su đối diện với cả một “cơ binh quỷ dữ” để dành lấy một con người. Chúa Giê-su không chỉ kéo một con người ra khỏi tội lỗi và đời sống xấu xa, mà còn nhấn chìm tận căn cả bè lũ Sa-tan cùng với sự ô uế tội lỗi, mà chuyện cả gần hai ngàn con heo từ “trên núi” lao “xuống biển” chết sạch là một biểu tượng.
Cả đàn heo đã lao từ trên núi xuống biển chết đuối nói lên ý nghĩa: Núi trong quan niệm Thánh Kinh của Do-thái là nơi hiện diện của thần linh và sự thánh thiện; biển là nơi ẩn náu của ma quỷ xấu xa tội lỗi. Chúa Giê-su đã tống xuống biển cả và dìm chết ma quỷ và sự ô uế, đòi lại chủ quyền cho Thiên Chúa, lấy lại sự thánh thiện và đời sống thiêng liêng trong sạch cho con người. Đó là nội dung Tin Mừng cần chuyển tải, chứ không phải tính lịch sử của câu chuyện.
Như vậy, trước ánh sáng thần hoá của Thiên Chúa thì mọi thứ nhơ uế bị quét sạch; có Chúa Giê-su ngự trong con người thì quỷ ma không thể làm gì được. Chúng ta là những Ki-tô hữu, chúng ta đang được ở trên “núi thánh” của Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giê-su Thánh Thể để Người xua đuổi “bầy heo ma quỷ” ra khỏi tâm hồn chúng ta.
(Ví dụ thêm: Tạ ơn?)
Lm. Pet. Nguyễn Hữu Đào
(Hiền Lâm)


























Visit Today :
Visit Yesterday :
This Month :
This Year :
Who's Online :
Discussion about this post