CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
NĂM A
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 14,1-12
Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? ” Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
II. SUY NIỆM
“ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA”
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Chúa là con đường, con đường của sự thật và dẫn đến sự sống. Chỉ có con đường duy nhất này dẫn chúng ta về với Cha trên trời. Đó là xác quyết của Chúa Giêsu với Tông đồ Tô-ma, và cũng cho hết mọi người chúng ta.
Thầy là Con Đường: Chúa Giêsu khẳng định Người là con đường duy nhất dẫn đến cùng Chúa Cha. Lời rao giảng của các tông đồ cũng luôn tuyên xưng như thế: “ngoài Chúa Giêsu ra, dưới gầm trời này không ai có thể đem lại ơn cứu độ”. “Thầy là đường”, chữ “Đường” ở đây không chỉ có nghĩa là Chúa Giêsu chỉ dùng giáo huấn mà dẫn ta đến sự sống, mà chính Người là con đường dẫn đến Chúa Cha nữa. Vì chính Người là mạc khải Chúa Cha (x. Ga 12,45) và bởi Chúa Cha mà đến rồi lại về với Chúa Cha (x. Ga 7,29-33). Chỉ trong Chúa Giêsu trung gian duy nhất, chúng ta mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Người đưa chúng ta đến với Thiên Chúa mà chúng ta không phải sợ hãi và xấu hổ.
Chúa Giêsu là “Con Đường”, điều này khẳng định một điều khác biệt giữa Ki-tô Giáo với tất cả các tôn giáo khác, một sự khác biệt của niềm tin Ki-tô Giáo và niềm tin nơi mọi tôn giáo khác. Các nhà sáng lập các tôn giáo khác cho rằng họ tìm ra được một con đường để giải thoát, nhưng họ chỉ dám nhận họ là người chỉ đường. Tỷ như Đức Phật chẳng hạn, Đức Phật chỉ nhận rằng: Phật chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải mặt trăng.
Còn Chúa Giêsu, Ngài khẳng định: Chính Thấy là Đường, chứ không chỉ là người chỉ đường. Điều này cũng khẳng định rằng, chúng ta muốn đi về với Chúa Cha, không phải chỉ đi theo Chúa Giêsu mà thôi, mà còn buộc phải đi trên “con đường Giêsu” mới được bước vào cõi sống đời đời.
Vậy con đường đó là gì?
Chúng ta nhớ lại một chân lý bất biến: là “qua thập giá vào vinh quang”. Nói tóm, đó là CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ”. Nhưng tại sao lại phải đi qua con đường thập giá mới đạt được cứu độ?
Chúng ta có thể loại suy thế này: Khi tổ tông Ađam và Eva của chúng ta chưa phạm tội, thì giữa con người và Thiên Chúa như có một con đường qua lại dễ dàng với nhau, mà theo diễn tả của sách Sáng thế 3,8: “Thiên Chúa đi dạo trong vườn địa đàng lúc gió hiu hiu thổi trong ngày”. Thế rồi, tội nguyên tổ giống như một quả bom hạt nhân đầy thuốc nổ “kiêu ngạo” đã rơi xuống nổ tung, tạo nên một hố sâu cắt đứt con đường nối từ con người đến với Thiên Chúa, và từ đó con người không thể đến với Thiên Chúa nữa. Thế rồi mãi cho đến khi Chúa Giêsu dùng cây thánh giá (làm bằng chất liệu khiêm nhường) làm cây cầu bắc qua cái hố sâu tội lỗi đó, để con người từ đây đi qua cây cầu thập giá để về với Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù có cây cầu, nhưng nếu con người không chịu đi qua mà vẫn ở lại trong thế giới tội lỗi, thế giới của sự dối trá và thế giới của sự chết, thì Thiên Chúa cũng đành bó tay vì sự tự do đã ban cho con người để họ lựa chọn.
“Qua thập giá vào vinh quang” (như chúng ta vừa lấy ví dụ để loại suy). Con đường thập giá là con đường duy nhất mà Chúa Giêsu đã đi, để tiêu diệt sự chết và đi vào cõi sống đời đời. Chúng ta theo đạo Công Giáo chính là theo Con Đường mang tên Giêsu, là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu – Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt. Vì thế, muốn đạt đến Nước Trời, Kitô hữu cũng phải bước theo con đường đó.
Đi trên con đường Giêsu là sống theo Sự Thật, bởi Chúa Giêsu là sự thật trọn vẹn đến từ Thiên Chúa, và chỉ có Người mới mặc khải đúng bản tính của Thiên Chúa. Chúa Giêsu từ trời mà đến, từ cung lòng của Chúa Cha nhập thể vào thế gian và chính Người là Thiên Chúa, nên chỉ có Người mới nói đúng về Thiên Chúa như Thiên Chúa có, chứ không phải như những quan niệm về Thiên Chúa cách khiếm diện trong Cựu Ước, hay một Thiên Chúa bằng sản phẩm suy tư của khoa học hay triết thuyết nào. Nghĩa là, chỉ có Đấng thấy Thiên Chúa, từ Thiên Chúa đến và là Thiên Chúa thì mới nói đúng Sự Thật về Thiên Chúa, và sự thật của Thiên Chúa là yêu thương, mà Chúa Giêsu chính là Sự Thật toàn diện và là hiện thân của yêu thương.
Chỉ có đi trên con đường Giêsu – con đường Sự Thật dẫn đến Sự Sống đời đời. Tưởng cũng cần lý giải rằng: Chúa Giêsu là Sự Sống tự thân nơi Thiên Chúa và là Đấng ban cho con người sự sống và sự sống đời đời. Còn sự sống nhân loại không tự thân, mà là tuỳ thuộc nơi Thiên Chúa, nên sẽ mất đi khi không nhận được sự trợ giúp của thức ăn, hoặc bị lệ thuộc bởi ngoại cảnh và có thể mất đi bất kỳ lúc nào.
Chúa Giêsu là sự sống của Thiên Chúa, là căn nguyên sự sống, là chủ của sự sống, là tự thân và vĩnh hằng. Người có quyền thông truyền cho những ai Người muốn, nên cũng chỉ có Người là sự sống duy nhất và vĩnh cửu của con Người, không có Người, con người không thể hiện hữu và trở về hư vô.
Tóm lại, Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Đó là đức tin tông truyền của Giáo Hội, vì thế không có con đường chui nào khác mà không qua Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất. Những linh đạo qua Đức Mẹ và các thánh đều quy hướng về Chúa Kitô. Mọi điều lớn lao mà các Kitô hữu làm được không phải do công chính mình, mà là do niềm tin vào Đức Kitô
Phải qua Con Đường Giêsu chúng ta mới vào được thế giới của Thiên Chúa, bởi lẽ chỉ Đấng từ trời xuống mới có thể đưa chúng ta lên trời. Ngày nay người ta nói đến nhiều con đường khác để được cứu độ. Nhưng con đường nào cũng phải đi qua Con Đường Giêsu. Nơi Con Đường này chúng ta gặp được Sự Thật trọn vẹn về Thiên Chúa. Nơi đây chúng ta gặp được Sự Sống viên mãn của chính Thiên Chúa. Amen.
Lạy Chúa Giêsu, là Con Đường dẫn tới Chúa Cha, là Sự Thật về dung mạo Thiên Chúa và là Sự Sống cho con người được hiện hữu và bất tử, xin cho chúng con luôn ý thức rằng, Chúa là trung gian duy nhất để chúng con chỉ bước theo một mình Chúa mà đạt đến Chúa Cha là nguồn hạnh phúc, chứ không chạy theo những thứ “thần” giả trá dẫn chúng con đến chỗ diệt vong. Amen.
Hiền Lâm
NĂM B
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 15,1-8
“Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.
Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
II. SUY NIỆM
“Ở LẠI TRONG CHÚA và SINH HOA TRÁI”
Người ta vẫn cho rằng, cách suy tư của hai nền triết học Đông và Tây Phương vốn khác nhau, nghĩa là dù cùng tìm nghiên cứu vũ trụ và con người, nhưng Đông Phương thường theo lối tổng hợp, còn Tây Phương lại thiên về lối phân tích lý luận. Thế nhưng, gần đây người ta nhận thấy rằng có nhiều điểm khả dĩ giống nhau giữa hai nền triết học, mà một trong những điểm giống nhau đó chính là đi tìm một sự kết hợp giữa hai chủ thể để phát sinh một cái mới. Thật vậy, trong khi Dịch Học nơi triết học Đông Phương tìm giải thích xoay quanh hai nguyên lý âm dương kết hợp tạo thành vạn vật, thì Tây Phương -mà cụ thể là Kant và Hégel- đã xây dựng nên phương pháp biện chứng: đề, phản đề, rồi hợp đề để thành một đề mới và cứ thế tiếp tục. Nói một cách tóm tắt, nghĩa là luôn có hai chủ thể khác nhau, kết hợp lại và tạo thành một cái mới.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay xoay quanh hai điều kiện của đời sống đức tin Ki-tô hữu, là phải “kết hợp” với Chúa và nhờ đó mà “sinh” hoa kết trái dồi dào:
– Bài đọc I, sách Tông Đồ Công Vụ kể chuyện thánh Phao-lô sau khi được ơn trở lại, đã lên Giê-ru-sa-lem “hiệp nhất” với các tông đồ, rồi mới đi truyền giáo cho các dân ngoại.
– Bài đáp ca là phần cuối của Thánh vịnh 22, nói về mọi người sẽ trở về với Chúa, rồi từ đó nói về Đức Chúa cho thế hệ tương lai… (x. Tv 22,28.31).
– Bài đọc II, thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, nói đến việc “ở lại” trong Thiên Chúa (x. 1Ga 24).
– Và đặc biệt trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giê-su nói rõ: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Minh họa cho điều này, Chúa Giê-su dùng hình ảnh cây nho và cành nho, mà trong đó, cành nho phải kết hợp với thân cây thì mới sinh hoa trái được.
Như thế, “Ở lại” và “sinh hoa trái” như là hai điều kiện của đời sống đạo mà Ki-tô hữu phải có. Nói theo cách nói của các môn học tự nhiên, đây là hai điều kiện cần và đủ. Ở lại hiệp nhất trong Chúa là điều kiện cần, nhưng còn phải có điều kiện đủ là phải sinh hoa trái cho Chúa.
Chúng ta cùng lần lượt suy niệm về hai điều kiện cần và đủ này:
1. Ở lại trong Thầy Giê-su.
Khi yêu nhau, người ta muốn ở lại với nhau, nên một với nhau, hiệp nhất lòng trí với nhau. Cũng thế, Ki-tô hữu yêu Chúa thì phải ở lại trong Người.
Thế nhưng, làm thế nào để ở lại trong Chúa?
Chúng ta có lời Chúa Giêsu dạy: “Ai ĂN THỊT và UỐNG MÁU Thầy, thì ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Chỗ khác Chúa Giê-su cũng nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ LỜI Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (Ga 14,23). Như vậy, ở lại trong Chúa Giê-su là rước Thánh Thể Chúa và sống Lời Chúa.
+ Ở lại trong Thánh Thể Chúa
Như thân xác con người, lúc nào còn cảm thấy ăn ngon, tiêu hóa được và thức ăn được tuần hoàn chuyển thành máu thịt và dưỡng chất nuôi sống cơ thể, thì con người sẽ khỏe mạnh và phát triển, và ngược lại, nếu một lúc nào đó thân xác không còn muốn ăn, hay ăn vào không tiêu hóa được nữa thì coi chừng, thân xác sẽ èo ọt, bệnh tật và chết.
Cũng thế, khi linh hồn còn ao ước rước lấy Thánh Thể Chúa, kết hợp với Chúa Giê-su, tan biến và nên một với nhau, thì linh hồn sẽ khỏe mạnh và tiến tới trong nhân đức, và ngược lại, khi linh hồn xa lìa Thánh Thể, hoặc đón nhận một cách hời hợt và Thánh Thể không còn là sinh lực và biến đổi linh hồn đó nữa, thì linh hồn đó đang chết dần theo tội lỗi. Và như vậy, thay vì ở lại trong Chúa, thì tìm ở lại trong thụ tạo:
– Một tu sĩ không còn mặn nồng với Thánh Thể, không còn kết hợp với Chúa Giê-su là tình yêu của mình, thì cũng không còn yêu mến cộng đoàn, và rồi họ sẽ tìm ở lại trong một đối tượng khác ngoài Chúa và cộng đoàn, dần dần đi tới mất ơn gọi.
– Một người vợ hay người chồng, khi không còn gắn bó với Chúa và nên một với nhau trong hiệu năng bí tích hôn phối, thì họ sẽ tìm ở lại trong một đối tượng khác, và sẽ đi đến sự phản bội và giết chết tình yêu ban đầu.
– Một Ki-tô hữu, khi chỉ sống đạo cách hời hợt, không hăng say tham dự thánh lễ và rước Thánh Thể Chúa, thì đời sống đạo sẽ mai một và chỉ là những Người Công Giáo hữu danh vô thực.
Một sự thật hiển nhiên là cành nho bị cắt đứt lìa thân cây chắc chắn sẽ héo khô và chết, vì nhựa sống của cành nho không tự có mà là nhựa sống được truyền từ cây sang cành. Khi sử dụng hình ảnh cây nho – cành nho này, Chúa Giêsu khẳng định sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện hữu của con người. Chỉ có Thiên Chúa mới tự hữu, còn con người chỉ hiện hữu lệ thuộc vào sự sống của Thiên Chúa.
+ Ở lại trong Lời Chúa
Chúng ta còn nhớ câu chuyện cô Mác-đa-la, dù lúc khóc nhiều mờ mắt đến nỗi tưởng Chúa Giê-su là người làm vườn, nhưng khi nghe tiếng Chúa gọi tên mình, thì nhận ra ngay. Nghĩa là, khi yêu, người ta nhận ra tiếng của nhau, thậm chí hơi thở, tiếng ho, giọng nói, tiếng bước chân của nhau.
Nếu Thánh Thể là sự “trao thân” – trao chính con người cho đối tượng mình yêu có tính Bí Tích – giữa Đấng Lang Quân và nhân loại, thì Lời Chúa là “bức thư tình” là những lời nói của Đấng Tình Yêu dành cho Tân Nương là các Ki-tô hữu. Vì thế, nếu Ki-tô hữu nói ở lại trong Chúa mà không yêu mến Lời và lắng nghe Lời thì thật là thiếu sót, vì Chúa Giê-su đã khẳng định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ LỜI Thầy” (Ga 14,23):
– Khi một tu sĩ không còn yêu mến Lời Chúa, không biết dùng Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời tu, không còn biết vâng lời dạy của bề trên và không lắng nghe nhau, thì sẽ đi tìm “nghe” một đối tượng khác ở ngoài, và hậu quả là sống tách lìa với cộng đoàn, như cành lìa cây.
– Khi vợ chồng và con cái không còn biết lắng nghe Lời Chúa và không còn biết lắng nghe nhau, thì gia đình sẽ nên ngột ngạt và đi tìm sự cảm thông ở ai khác, hậu quả là gia đình tan nát đổ vỡ.
– Là một Ki-tô hữu mà không mộ mến Lời Chúa và muốn không nghe Lời của Đấng mà mình tôn thờ thì rõ ràng tâm hồn đã xa Chúa, đã tách rời với sự hiệp thông với giáo xứ và với tha nhân.
Đáng tiếc là ngày nay, phần lớn các bạn trẻ là Ki-tô hữu, biết làu làu các nhân vật minh tinh điện ảnh hay ca sĩ, nhưng không thể nhớ nổi tên của một vị thánh viết sách Tin Mừng.
Như thế, sự sống tâm linh của tín hữu sẽ không còn khi tách lìa với Đức Kitô là “sự sống” như Người từng tuyên bố: “Thầy là Sự Sống”. Như vậy, không thể có Kitô hữu nào mà lại không kết hợp với Chúa Giêsu, đặc biệt kín múc sự sống của Người từ bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa.
Đó là hai cách thế ở lại trong Chúa, nhưng ở lại thôi mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ, mà còn phải sinh hoa trái.
2. Sinh hoa trái.
Chúa Giê-su khẳng định: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,8). Thật vậy, chức năng của cành nho không phải là trơ trụi hoặc ra lá, mà là phải sinh hoa trái, sinh hoa trái tốt chứ không phải hoa trái xấu, nếu không thì phải bị cắt bỏ để khỏi làm tổn hại đến cây và các cành khác. Chức năng của Ki-tô hữu là phải sinh công phúc việc lành, phải làm phát triển Giáo Hội, phải truyền giáo mở rộng nước Chúa.
Con đường theo Chúa không chỉ là từ ngoài tiến vào đền thánh Giê-ru-sa-lem trong niềm vui, mà còn là cùng với Chúa từ trong thành tiến ra Núi Sọ trong hy sinh thánh giá:
– Đời tu không chỉ có việc chắp tay cầu nguyện mà còn có lao động, việc phụng vụ phải làm sao có giá trị cứu độ, sinh ơn lành cho thế giới.
– Không phải như ai đó hành hương nơi nào cũng đến, Đức Mẹ nơi nào cũng đi, nhưng về sống với gia đình thì không ra gì.
– Đời sống đạo không chỉ dừng lại ở nhà thờ, nhưng phải từ nhà thờ đi ra với cuộc sống và làm chứng cho Chúa trong phận vụ của mình.
= Cành nho muốn sinh hoa trái thì phải hút nhựa sống từ cây và phải chịu chủ vườn cắt tỉa: Đời sống đức tin của Ki-tô hữu đòi hỏi phải kết hợp và kín múc từ cây sự sống là Chúa Giê-su, đồng thời phải chịu cắt tỉa là những hy sinh mỗi ngày, bước theo con đường thập giá, để cộng tác với Chúa sinh hoa trái là ơn cứu độ tha nhân.
= Không sinh hoa trái: Có thứ cành nho vẫn hút nhựa sống từ cây, nhưng lại chỉ ra lá. Đó là tình trạng của những con người ích kỷ chỉ lo cho mình, được hưởng bao ân huệ của Chúa nhưng lại không chia sẻ cho tha nhân, nhất là thiếu đi tinh thần truyền giáo. Việc yêu mến Thiên Chúa thật tự nó sinh hoa trái, người luôn có sự sống thân tình với Thiên Chúa thì cũng đương nhiên có đời sống tương quan đức ái với mọi người.
= Sinh hoa trái xấu: Có loại cành nho lại sinh hoa trái xấu, có thể vì không hút được đủ dinh dưỡng từ cây, cũng có thể do bị sâu bọ cắn phá. Đó là những ai hời hợt với ơn Chúa, hoặc để cho những thứ tác động bên ngoài xâm nhập đục khoét tâm hồn, nên đời sống họ không thể sinh hoa trái công phúc việc lành cho Giáo Hội.
Tóm lại, qua những gì đã chia sẻ, đời sống đức tin của mọi Ki-tô hữu là phải ở lại trong Chúa và sinh hoa trái thiêng liêng cho Giáo Hội. Chức năng của cành nho là hút nhựa sống từ cây nho để sống và sinh hoa thơm trái tốt, thì chức năng của Kitô hữu là kết hợp với Đức Kitô để kín múc sự sống tự nơi Người, hầu làm cho Giáo Hội được triển nở…
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết luôn ở lại trong Chúa qua việc kết hiệp với Chúa mỗi ngày nhờ Thánh Thể và suy niệm lời Chúa, để chúng con sinh hoa trái cho Chúa là ngày một lớn lên trong ơn nghĩa và đem nhiều linh hồn về cho Chúa. Amen
Hiền Lâm
NĂM C
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 13,31-33a.34-35
Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”
II. SUY NIỆM
“YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU”
Theo Tin Mừng Gio-an, công trình cứu chuộc của Chúa Giê-su Ki-tô được nhìn như là một cuộc sáng tạo mới (Tân Sáng Tạo), mà trong cuộc Tân Sáng Tạo ấy, Chúa Giê-su như là A-đam mới, sinh ra một Dân Mới là Giáo Hội. Trong Dân Mới này bao gồm những “con người mới” được sinh ra trong Nước và Thánh Thần, sống trong một thời đại mới và giữ “điều răn mới”. Điều răn mới đó là “yêu thương trong một mức độ mới”.
Trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su nói với chúng ta về “Điều Răn Mới”, là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Điều này không có nghĩa là trước đó chưa có giới luật yêu thương, nhưng là mức độ yêu thương của “điều răn mới” cao cả và quyết liệt hơn gấp bội: Không phải như luật cũ là “yêu bạn ghét thù” mà là yêu thương mọi người không loại trừ ai; không chỉ yêu những người đáng yêu nữa mà là yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho họ; không chỉ yêu tha nhân bằng mình nữa mà là yêu hơn cả chính mình – “yêu như thầy Giê-su đã yêu” – yêu đến hi sinh tính mạng vì người mình yêu.
Yêu thương trở nên đồng phục để nhân loại nhận ra đâu là con cái của Chúa, và cũng chính yêu thương là cách tôn vinh Thiên Chúa như Chúa Giê-su đã làm cho Chúa Cha được tôn vinh khi Người yêu thương nhân loại. Thật vậy, khi Thiên Chúa mang danh: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì điều làm cho Người được tôn vinh hơn cả chính là chúng ta biết sống yêu thương, và yêu thương làm cho con người nên giống Chúa vì Chúa là tình yêu. Phải, con cái yêu thương nhau thì cha mẹ vui và nở mày nở mặt với mọi người, mọi người sẽ ngưỡng mộ và ca ngợi cha mẹ ‘sống hiền để đức cho con’ là thế.
Lý tưởng là vậy, nhưng để có được tình yêu và “yêu như Thầy đã yêu” thì trước hết người môn đệ được mời gọi ở lại trong tình yêu của Thầy Giêsu, rồi từ đó, môn đệ mới biết yêu như Thầy đã yêu và sẵn sàng trao ban tất cả.
1. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
Ở lại trong tình yêu của Chúa là muốn được gần gũi với Chúa, muốn đặt niềm tin cậy phó thác vào Chúa, muốn Chúa làm chủ đời sống và làm lẽ sống cho cuộc đời.
Ở lại trong tình yêu của Chúa là ở lại trong tình bạn hữu với Chúa. Cảm nghiệm ta có về tình bạn với Chúa giống như cảm nghiệm của hai người yêu nhau.
Hai người yêu luôn cảm thấy gần gũi nhau. Khi xa nhau, họ vẫn tưởng nhớ đến nhau, nhớ bóng dáng người yêu, ánh mắt của người yêu và cả tiếng thì thầm của người yêu. Nói cách khác, họ cách mặt mà không xa lòng.
(Một anh lính ở sa trường, cách xa cô thôn nữ là người yêu của anh hàng vạn dặm, chiếc khăn mùi soa mà cô gái tặng ngày anh lính lên đường trở thành một kỷ vật thiêng liêng như là hình ảnh của người yêu).
Cảm nghiệm của ta có được về tình yêu và tình bạn với Chúa cũng tương tự như vậy. Có được cảm nghiệm về tình yêu, tình bạn với Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, bên chúng ta và xung quanh chúng ta. Khi ăn uống, làm việc, giải trí và cả khi ngủ nghỉ, chúng ta cũng cảm nghiệm sự diện diện của Chúa.
Từ đó, cũng như hai người yêu nhau, họ muốn làm cho nhau được vui và tránh mọi thứ có thể gây buồn cho nhau. Thì đây, khi ở lại trong tình yêu của Chúa, chúng ta cũng lo tránh tội lỗi để không làm buồn lòng Chúa và lo luyện tập nhân đức là tuân giữ các điều răn của Chúa.
2. Yêu như thầy đã yêu.
Viết Tin Mừng cho người Hi-lạp, Tin Mừng thứ IV tường thuật định nghĩa về tình yêu của Chúa Giêsu ở một mức độ cao nhất mà các học giả Hi-lạp đương thời đưa ra ba cấp độ là eros, filia và agape. Eros là chiếm hữu, filia là còn có qua có lại, còn agape là yêu một cách vô vị lợi. Chúa Giêsu đã chọn yêu con người trong mức độ cao nhất là yêu cách nhưng không và chết đi cho người mình yêu. Người cũng mời gọi các môn đệ: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”
Như một chàng trai muốn tìm kiếm bạn đời, mà cứ ở một chỗ, không đến nhà cô gái, không tìm gặp nàng, không trao đổi tìm hiểu nàng, mà cứ ở nhà gọi điện thoại, gửi tin nhắn, thư điện tử… để tỏ tình, thì làm sao cô gái kia nhận lời được? Chúa Giêsu cũng thế, nếu Người cứ ở trên trời nói vọng xuống: “Ta yêu các con, Ta sẵn sàng chết vì các con…” thì làm sao con người kiểm chứng được tình yêu đó và đáp lại được? Vì thế, Chúa Giêsu phải xuống với con người, cùng chấp nhận kiếp sống, cùng đồng hành chia sẻ và sẵn sàng hy sinh để cứu con người là đối tượng mà Người yêu.
Như vậy, yêu như Thầy đã yêu, nghĩa là không so đo tính toán mà là tình yêu nhưng không và hi sinh cho nhau. Chúa Giêsu yêu chúng ta và hy sinh chính mình cho chúng ta, thì đến lượt chúng ta cũng biết hi sinh cho nhau.
3. Tình yêu lớn nhất
Khi hai người yêu nhau, những thứ thư từ, quà cáp, tiền bạc, lời nói… chỉ là những thứ phụ thuộc, điều họ cần chính là con người của nhau, cần hiến dâng hoàn toàn cho nhau, cần được kết hợp với nhau tuy hai mà một…, và đó cũng là chất thể của Bí Tích Hôn Nhân. Hơn ai hết, Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu, Người quá thấu hiểu sự thiếu thốn của con người là đối tượng yêu của Người. Những lời nói, hành động của Người để lại thật quý, nhưng có gì quý hơn và con người cần hơn? Có gì minh chứng tình yêu hơn là sự trao ban chính thân mình Người cho con người?
Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13). Thổ lộ cho ai về cảnh ngộ cá nhân hay gia đình, ngay cả những tâm tư và bí mật của đời mình là dấu chỉ mình tín nhiệm người đó kín đáo, muốn gần gũi với người đó và muốn mở lòng để người đó đi vào đời mình. Ðó là cách thế Ðức Giêsu đã làm để trở nên bạn hữu với ta: Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).
Tóm lại, tình yêu không thể diễn tả được hết bằng ngôn từ, nhưng là sự cảm nhận rất riêng của mỗi người trong sự rung cảm của trái tim mà không bị lệ thuộc của bất cứ ranh giới nào. Tuy nhiên, người môn đệ có một tiêu chuẩn để diễn tả tình yêu đích thực là tuân giữ điều răn yêu thương của Chúa dành cho tha nhân, yêu thương một cách vô vị lợi, không so đo tính toán thiệt hơn, mà là YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU khi sẵn sàng hi sinh cả tính mạng vì bạn hữu.
Với giáo huấn của Chúa Giê-su và cũng là lời trối của Người cho chúng ta là “yêu thương nhau”. Và vì thế, “yêu thương nhau” trở thành bản chất của người người môn đệ và là “đồng phục” của mọi thành phần trong Giáo Hội Công Giáo chúng ta. Thật vậy, thế giới không nhận ra chúng ta là con cái Chúa vì bất cứ điều gì khác, dù to lớn và ảnh hưởng thế nào, nhưng họ chỉ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa vì chúng ta ‘yêu thương nhau”. Phải: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu và yêu đến cùng khi trao ban đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, xin cho chúng con cũng biết yêu thương, hi sinh và trao ban cho nhau một cách không so đo tính toán, để chúng con trở nên môn đệ đích thực của Chúa, là BIẾT YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ CHÚA ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG CON. Amen
Hiền Lâm
Discussion about this post