CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN
NĂM A
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 1,29-34
Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước.” Ông Gio-an còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
II. SUY NIỆM
« ĐẤNG XÓA BỎ TỘI TRẦN GIAN »
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay là lời giới thiệu của thánh Gio-an Tiền Hô về Chúa Giê-su cho các môn đệ của ngài cũng như cho mọi người chúng ta: Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa và là Đấng xóa bỏ tội trần gian.
1. “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá ‘tội trần gian”.
Có lẽ khắp toàn văn Thánh Kinh, đây là câu nói rõ nhất về sứ mệnh và cách thức cứu chuộc của Chúa Giê-su: Ơn cứu độ không chỉ xoá bỏ Tội Nguyên Tổ, mà còn xoá bỏ Tội Trần Gian. Lại nữa, cách thức cứu chuộc không phải theo cách thức binh hùng tướng mạnh mà là như là con chiên chịu sát tế, làm của ăn và dấu hiệu cứu dân trong Đêm Vượt Qua.
– Agnus Dei – CHIÊN THIÊN CHÚA.
Mỗi ngày trong Thánh Lễ, linh mục nâng Mình Thánh lên và lặp lại lời của thánh Gio-an Tiền Hô nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…”. Lời này gợi lại cho chúng ta hình ảnh con chiên chịu sát tế trong đêm vượt qua xưa , khi Chúa cứu Israel khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và vượt qua Biển Đỏ; thịt chiên làm của ăn lễ vượt qua, máu chiên bôi lên khung cửa để thoát thần tru diệt hại dân. Hôm nay, Chúa Giê-su được ví như Con Chiên chịu sát tế để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, vượt qua biển trần gian từ cõi chết vào cõi sống. Đặc biệt, Thịt Máu Chúa Giê-su nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta và rửa sạch chúng ta hết mọi tội khiên.
– Xoá bỏ TỘI TRẦN GIAN
TỘI TRẦN GIAN nơi thần học Gio-an (x. Ga 1,29), được hiểu như là sự lạm dụng tự do Nguyên Tổ đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, rồi một khi tội lỗi bắt đầu xuất hiện thì đà xuống dốc không thể dừng lại được, và kéo theo một môi trường hay một tình trạng hư hoại. Trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác, tội lỗi cứ thêm chồng chất và mọi người đều đóng góp vào “tội trần gian” ấy. Đó là tình trạng khi một người sinh ra đã ở trong môi trường tội lỗi và rồi lệ thuộc tình trạng sẵn có này. Với khả năng nhỏ bé con người không thể lướt thắng mãnh lực tội lỗi nên cần đến Ơn Cứu Rỗi.
Như vậy: Qua chứng từ của thánh Gio-an Tiền Hô trong bài Tin Mừng hôm nay, mời gọi chúng ta ý thức hơn về công ơn của “Con Chiên Thiên Chúa” đã chịu sát tế để cứu chuộc chúng ta. Để chúng ta luôn năng chạy đến với Bí tích Thánh Thể, dọn mình sốt sắng rước lễ, để nhờ Bánh Trường Sinh này, chúng ta càng được nên mạnh mẽ can trường chống lại mọi nguy cơ bởi “tội trần gian”, xứng đáng vào dự Tiệc Chiên Chúa mai sau trên Nước Trời.
2. “Tôi đã thấy và tôi làm chứng: Chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
Thánh Gio-an Tiền Hô được mặc khải là nhìn thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì người ấy là Đấng mà ngài sẽ làm chứng. Và thánh nhân đã thấy và làm chứng rằng: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
Mọi người chúng ta khi chịu phép Rửa Tội, đã nhận lấy ba nghĩa vụ: Ngôn sứ, tư tế và vương đế, hay còn gọi là: LÀM CHỨNG, LÀM LỄ và LÀM CHỦ. Điều này cũng tương đương với ba tương quan: Với tha nhân, với Chúa và với chính mình.
Vương đế (làm chủ) là mình có quyền làm chủ chính mình trước tội lỗi, tự do quyết định số phận của mình.
Tư tế (làm lễ) là vừa trở nên của lễ, vừa hằng ngày dâng hi lễ lên Thiên Chúa và ca tụng Người.
Ngôn sứ (làm chứng) là phải trở nên chứng nhân cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nơi mình đang sống, để mọi người nhận ra mà trở về với Chúa.
– Vai trò làm chứng là hết sức quan trọng, nói lên tính tương giao trách nhiệm của chúng ta với những ai chưa nhận biết Chúa và cả những ai đang sống nguội lạnh bê trễ việc Chúa.
Thánh Gio-an Tiền Hô nhận ra Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa khi thấy Thánh thần ngự xuống trên Người, và thánh nhân đã làm chứng cho dân chúng biết rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Đời sống của Ki-tô hữu chúng ta phải là một chứng tá sống động, để dù ở nơi đâu cũng toát lên được một con người đầy Thánh Thần, để cho mọi người nhận ra chúng ta là Công giáo, là những “người con Chúa”, để Thiên Chúa được vinh danh nơi đời sống chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho cuộc đời mỗi chúng con hôm nay là lời chứng cho mọi người xưng quanh nhận ra sự hiện diện của Chúa, để mỗi ngày có them nhiều người tin theo Chúa. Amen.
Hiền Lâm
NĂM B
II. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 1,35-42
Hôm ấy, ông Gio-an đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế? ” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu? ” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: “Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).
II. SUY NIỆM
« GIỚI THIỆU CHÚA CHO NHAU »
Mỗi ngày trong Thánh Lễ, linh mục nâng Mình Thánh lên và lặp lại lời của thánh Gio-an Tiền Hô mà khởi đầu của bài Tin Mừng hôm nay nói tới: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…”. Lời này gợi lại cho chúng ta hình ảnh con chiên chịu sát tế trong đêm vượt qua xưa, khi Chúa cứu Israel khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và vượt qua Biển Đỏ; thịt chiên làm của ăn lễ vượt qua, máu chiên bôi lên khung cửa để thoát thần tru diệt hại dân. Hôm nay, Chúa Giê-su được ví như Con Chiên chịu sát tế để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, vượt qua biển trần gian từ cõi chết vào cõi sống. Đặc biệt, Thịt Máu Chúa Giê-su nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta và rửa sạch chúng ta hết mọi tội khiên.
Nhưng, dù ơn cứu độ có đó, Chiên Thiên Chúa đã chịu sát tế mà con người không được biết tới, hay không được ai loan báo, hoặc con người từ chối đón nhận, thì ơn cứu độ không thể viên mãn. Chính vì thế mà Chúa mời gọi mọi người phải dẫn tha nhân đến với Chúa, như thánh Gio-an Tiền Hô và các tông đồ đầu tiên đã giới thiệu Chúa Giê-su cho nhau, cũng như ý thức chính mình là một giai đoạn Chúa dùng để chuẩn bị, hoặc rao giảng trong chương trình cứu độ của Chúa.
1. Mỗi người có một giai đoạn trong chương trình của Thiên Chúa.
Có lẽ hiếm tìm được ai như thánh Gio-an Tiền Hô. Thay vì lôi kéo người khác theo mình, không dành giật đệ tử đã là may, thì ngài lại giới thiệu đệ tử của mình cho thầy khác là Chúa Giê-su. Thánh Gio-an làm thế, vì ngài ý thức về thời gian và sứ vụ của vị Tiền Hô, là chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến và khi Đấng Cứu Thế đến thì sứ vụ ngài đã hoàn thành.
Chúng ta cũng thế, mỗi người đều nhận một sứ vụ và một giai đoạn trong chương trình của Thiên Chúa. Thế nhưng, (cả đời lẫn đạo) không ít người tự lầm tưởng như chỉ có mình mới làm được điều này điều kia, mà không ai có thể thay thế, rồi lo tạo cánh kéo bè củng cố chỗ đứng của mình. Đặc biệt khó chấp nhận và tìm cách níu kéo khi phải bàn giao. “Đấng” này khi phải thuyên chuyển để cho “vị” khác đến phục vụ thật khó biết bao, nhất là tìm cách áp đặt chủ trương và công trình của mình lên người tiếp nối.
Lời Chúa qua gương thánh Gio-an Tiền Hô, mời gọi chúng ta hãy ý thức chỗ đứng của mình và biết mình là một giai đoạn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
2. Ở với Chúa.
Một điểm nữa cần lưu tâm mà bài Tin Mừng dạy chúng ta là, khi chọn theo Chúa thì hãy đến ở lại với Chúa: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39).
Ở với Chúa không chỉ là ở với người bằng một thân xác và một nơi chốn cụ thể, mà là mọi ý nghĩ và hành động đều luôn trong sự hiện diện của Chúa, trong sự kết hiệp mật thiết với Người.
Đang khi nhiều người khi đã chọn theo Chúa, thì thay vì đến ở với Chúa, thì lại vẫn tìm ở với “ai đó” hoặc ở với ông ‘thần tài” hay danh vọng. Mọi chuyện lo lắng việc đời và đam mê danh vọng đã lấn át sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời thì làm sao theo Chúa được.
“Hãy đến mà xem” (Ga 1,39): Việc biết Chúa không phải là chuyện bàng quang không thèm gia nhập đạo; theo đạo không phải là dửng dưng không quan tâm đến việc đạo đức, tham dự thánh lễ và cầu nguyện với Chúa; việc trở nên bạn hữu của Chúa không phải chỉ là chuyện nghe nói về Người… Nhưng cần sự gặp gỡ giữa ta với Chúa, không ai giữ đạo thay cho ta được, không ai tu thay cho chúng ta được, không ai đền tội hay lập công cho chúng ta được… Vì thế, cần một sự “đến mà xem” nghĩa là phải đến gặp gỡ Chúa qua các Bí tích và đời sống đạo để được Người cứu độ.
3. Giới thiệu Chúa cho nhau.
Một ý tưởng nữa bao trọn bài Tin Mừng hôm nay đó là việc giới thiệu cho người chúng ta gặp gỡ đến với Chúa.
Thánh Gio-an Tiền Hô giới thiệu cho môn đệ đến với Chúa. Đến lượt Anrê (học trò cũ của Gio-an) đem anh mình là Phêrô đến giới thiệu với Chúa Giê-su.
Ý nghĩa của những sự giới thiệu này mang tính tiếp nối của ơn gọi trong Giáo hội và sứ vụ truyền giáo của chúng ta.
Ơn gọi làm Ki-tô hữu hay ơn gọi tu trì, đôi khi được Chúa gọi cách trực tiếp qua sự thôi thúc trong lòng, nhưng có lúc cũng cần đến những người khôn ngoan, những người đã đi trước, như cha xứ, các tiền bối đi trước… hướng dẫn và giới thiệu chúng ta đền với đạo hay đến với đời tu.
Sứ vụ truyền giáo là một sự tiếp nối trường kỳ, khi chúng ta được phúc đón nhận Tin Mừng, thì đến lượt chúng ta cũng phải làm cho Tin Mừng đó được lan toả trên mọi người xung quanh chúng ta và hết những ai chúng ta gặp gỡ.
Lạy Chúa Giê-su Ngôi Lời nhập thể, xin tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ hành động và cách cư xử của chúng con, để bằng lời nói cũng như bằng hành động chúng con cũng trở thành ánh sáng dẫn đưa mọi người đang lầm bước trở về với Chúa. Amen.
Hiền Lâm
NĂM C
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 2,1-11
Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”
Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! ” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.” Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.12 Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.
II. SUY NIỆM
“CÓ MỘT SỰ CẢM THÔNG”
Hôm nay, Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng một phép lạ, nhưng điều đặc biệt là trong phép lạ này có một sự cảm thông và can thiệp của Đức Maria Thân Mẫu Người. Phải chăng tác giả Tin Mừng Gio-an có một sự ngụ ý đây?
Đức Giê-su, Mẹ Người là Đức Maria và các môn đệ đều hiện diện tại tiệc cưới Cana. Với sự kiện “Mẹ của Đức Giê-su” được đề cập đến ngay trong câu đầu tiên của tường thuật tiệc cưới Cana, điều này cung cấp bối cảnh cho phép lạ, và sự kiện Đức Maria đặt câu hỏi liên quan đến “rượu”, rõ ràng hướng sự chú ý của độc giả vào sự cộng tác của Mẹ. Tiệc cưới cũng như các bữa tiệc trong Kinh Thánh đều có tính biểu tượng về ngày Messia (Is 25, 6; Đn 5, 1; Mt 22, 2).
Khi rượu sắp hết, một sự bối rối cho mọi người trong phòng tiệc, Đức Maria đã đề cập đến vấn đề này và yêu cầu các người phục vụ “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Sứ điệp này cũng muốn nói với cộng đoàn Hội thánh sơ khai, gồm những ai cần tham dự vào “rượu” của thời đại mới.
Tác giả Tin Mừng thứ tư mô tả sự đáp trả của Đức Maria đối với Đức Giê-su trong một cách thức cho thấy rằng đức tin của Mẹ không bao giờ có chút nghi ngờ. Vai trò nổi bật của Đức Maria trong tiệc cưới Cana này bao gồm sự cảm thông, sự chuyền cầu và hướng mọi người về với Đức Giê-su.
1. Đặc trưng về sự cảm thông.
Câu chuyện tiệc cưới Cana cho thấy hình ảnh thật đẹp của Đức Maria về sự cảm thông chia sẻ với hoàn cảnh của đôi tân hôn. Đức Maria đã nhạy bén thấu hiểu sự bối rối của chủ tiệc. Tiệc đang vui mà rượu hết giữa chừng là một tai nạn, làm cho chủ tiệc mất mặt và cô dâu chú rể bị chê cười, cảm thông với hoàn cảnh như vậy, Đức Maria đã “gợi ý” với Đức Giê-su.
Sự cảm thông được diễn tả như đôi cánh của đức ái, là y tá săn sóc cho bệnh nhân … Sự thông cảm còn tiên liệu trước cho những tâm trí chậm chạp, đó là thấy trước nhu cầu. Sự cảm thông là quảng đại tự bản chất, xuất phát từ một trái tim biết nhìn ra xung quanh. Chính sự cảm thông này là một nhân đức nổi bật nơi Đức Maria, với một trái tim mẫu tính quảng đại, Mẹ thấu hiểu trước những thiếu thốn của nhân loại và cảm thông trước những nỗi đau của nhân loại để khẩn cầu Đức Giê-su Con yêu dấu của Mẹ trợ giúp họ. Sự cảm thông với đôi tân hôn và chủ tiệc nơi tiệc cưới Cana là biểu trưng cho một sự cảm thông liên lỉ của Mẹ Thiên Chúa đối với những người con của Mẹ được sinh ra dưới chân thập giá Đức Ki-tô. Đức Maria không chỉ cảm thông với những ai chạy đến kêu xin Mẹ, mà còn đi bước trước cảm thông với những ai gặp đau khổ thiếu thốn cả khi họ chưa kịp cầu xin, tựa như việc Mẹ cảm thông với hoàn cảnh bi đát và quá tế nhị có thể làm mất danh dự của đôi tân hôn, và đã lo lắng cho họ trước khi họ xin được giúp đỡ.
2. Đặc trưng chuyển cầu.
Việc “hết rượu rồi” là một khía cạnh cụ thể sự nghèo túng của nhân loại, điều này cũng mang một giá trị tượng trưng: đoán trước những nhu cầu con người, cũng đồng thời đưa chúng vào chiều kích sứ mạng thiên sai và sức mạnh cứu độ của Đức Ki-tô. Vậy cần phải có một sự trung gian: Đức Maria đứng giữa con mình và loài người trong hoàn cảnh đầy thiếu thốn, nghèo túng và khổ đau của họ. Mẹ đứng “ở giữa”, nghĩa là hoạt động trong vai trò trung gian, không phải bên ngoài, nhưng với tư cách là Mẹ, và ý thức mình có thể trình bày cho Con các nhu cầu của nhân loại, hay đúng hơn là “có quyền làm điều đó”.
Một khía cạnh thiết yếu khác trong vai trò làm Mẹ của Đức Maria được tỏ hiện qua điều Mẹ nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Thân Mẫu của Đức Ki-tô xuất hiện trước nhân loại như người phát ngôn ý muốn của Chúa Con; Mẹ đưa ra một số đòi hỏi phải làm để quyền năng cứu độ của Đấng Thiên Sai được thể hiện… ở Cana, nhờ sự can thiệp của Đức Maria và sự tuân phục của các gia nhân mà Đức Giê-su đã bắt đầu “giờ” của Người. Cũng như ở Cana, Đức Maria xuất hiện như một kẻ tin vào Đức Giê-su: lòng tin của Mẹ làm phát sinh “dấu lạ” đầu tiên của Đức Giê-su và góp phần khơi dậy đức tin nơi các môn đệ (x. Ga 2, 11).
Biến cố Cana miền Galilê được xem như lời tiên báo đầu tiên về sự trung gian của Đức Maria, hoàn toàn hướng về Đức Ki-tô và hướng về mạc khải quyền năng cứu độ của Người. Nói cách khác, xét trên bình diện thần học, chỉ cần Chúa Ki-tô, Đấng trung gian duy nhất để cứu độ nhân loại, nhưng đứng về khía cạnh nhân loại, thì đến với Chúa Giê-su, nhờ Đức Maria, là một điều rất thích hợp. Ơn cứu độ mà Đức Giê-su mang đến cho toàn thể nhân loại, trên phương diện khách quan, đã hoàn tất đầy đủ, nhưng trên phương diện chủ quan, con người tiếp nhận ơn cứu độ của Chúa Giê-su, qua sự trợ giúp của Đức Maria. Với tấm lòng từ mẫu của Đức Maria, ơn cứu độ mà Đức Giê-su đem đến cho thế gian, sẽ mang đến một hình ảnh khoan dung nhân ái.
Như vậy, vai trò trung gian của Đức Maria tự bản chất không thay thế Đức Ki-tô, vì chỉ mình Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian cần thiết, sung mãn và hoàn hảo, nhưng Đức Maria qua cái nhìn của nhân loại về Chúa Ki-tô, Mẹ có tất cả quyền thế của một Nữ Trạng Sư.
Tóm lại, tường thuật tiệc cưới Cana trong Tin Mừng Gio-an đã làm nổi bật hai đặc trưng của Đức Maria là lòng cảm thông trắc ẩn trước nhu cầu cũng như đau khổ của người khác, và vai trò trung gian chuyển cầu cùng Thiên Chúa cho nhân loại và cách riêng cho các tâm hồn. Đây là tinh thần mà mọi thành phần dân Chúa phải mặc lấy. Đặc biệt giữa thế giới hôm nay, biết bao người đang chìm đắm trong đau khổ thể xác và lầm than tội lỗi, rất cần lòng cảm thông chia sẻ tình tương thân tương ái và nhiệt thành ra đi để giúp mọi người đón nhận Tin Mừng, hầu được giải phóng khỏi lầm than tội lỗi. Đồng thời, các con cái Mẹ Maria hãy học lấy gương Mẹ, để ngày đêm cầu xin ơn Thiên Chúa thương xót và ban ơn cứu độ cho các tâm hồn và cho thế giới thoát cảnh chiến tranh và nghèo đói.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã trao cho nhân loại một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria, Đấng đầy lòng trắc ẩn, cảm thông với mọi nhu cầu của chúng con. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ, để được Mẹ che chở và cầu bầu cho chúng con trước mặt Chúa, hầu chúng con cũng biết sống cảm thông và chia sẻ với tha nhân. Amen.
Hiền Lâm
Discussion about this post