CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY
CHÚA NHẬT LETARE
NĂM A
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 9,1-41
Khi ấy, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? ” Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”
Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao? ” Có người nói: “Chính hắn đó! ” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi! ” Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây! ” Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế? ” Anh ta trả lời: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu? ” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”
Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy? ” Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh? ” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ! “
Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được? ” Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được! ” Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào? ” Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng? ” Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” Anh đáp: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư? ” Rồi họ trục xuất anh.
Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không? ” Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin? ” Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù! “
Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao? ” Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn! “
II. SUY NIỆM
“ĐỂ KỲ CÔNG CHÚA ĐƯỢC TỎ HIỆN”
Chúa Nhật IV Mùa Chay quen gọi là Chúa Nhật Letare. Letare là chữ Latin, chữ đầu tiên của bài Ca Nhập Lễ hôm nay có nghĩa là “hãy vui lên” được trích từ Is 66,10. Nhằm nói lên ý nghĩa chúng ta vui mừng đã đi được hơn nửa chặng đường của mùa chay, là dịp nhìn lại chúng ta đã làm được gì và vui mừng vì sắp được hân hoan mừng lễ Vượt Qua.
Bài Tin Mừng đọc trong Chúa Nhật hôm nay thật dài, xoay quanh câu chuyện một người mù bẩm sinh đã được Chúa Giêsu cho sáng mắt.
Như chúng ta đã từng chia sẻ, Tin Mừng Gioan mang tính biểu tượng hơn là vấn đề lịch sử, và ngay trong những tường thuật lịch sử cũng dùng những ngôn ngữ biểu tượng. Chúa Nhật III Mùa Chay chúng ta được nghe câu chuyện “trên bờ giếng Giacóp” về một người phụ nữ như là hình ảnh của người “dân ngoại” Samari đã trải qua năm đời làm tôi và ngay đời thứ sáu đương thời họ cũng đang tôn thờ một vị không phải là Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Thì hôm nay, câu chuyện người mù bẩm sinh cũng đầy ý nghĩa biểu tượng nơi “dân Chúa” Giuđê, khi họ tưởng mình là sáng mắt nhưng lại mù loà tâm hồn để không nhận ra Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Thật vậy, có lẽ chúng ta khi nghe qua câu chuyện rất dài này, cũng không khỏi thắc mắc, vì chỉ có chuyện một anh mù bỗng dưng được một người chữa cho sáng mắt thì đâu có tội gì hay vi phạm bất kỳ một điều luật nào trong bộ luật, vậy mà các sếp Do Thái phải triệu tập cả một toà án để xử, mời cả cha mẹ “phạm nhân’ lên để đối chất, rồi trục xuất anh ra khỏi đạo chỉ vì “cái tội sáng mắt mà không xin phép”.
Thiết nghĩ, có lẽ không nhất thiết có hoàn toàn như thế, nhưng chúng ta cũng không nên dừng lại ở vấn đề có bao nhiêu phần trăm, mà là quan trọng hơn cả chính là sứ điệp mà bài Tin Mừng hôm nay chuyển tải qua câu truyện “Chúa Giêsu chữa cho người mù bẩm sinh được sáng mắt”.
Chúng ta cùng tìm hiểu một vài điểm nổi bật:
1. Để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện.
Các môn đệ khi thấy anh mù đã hỏi Chúa Giêsu: “Bởi tội anh ta hay tội cha mẹ của anh ta mà phải bị mù…?”, Chúa Giêsu khẳng định, không do ai cả mà là để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Quan niệm về bệnh tật là do đương sự hay thậm chí quy lên ba bốn đời trước đã phạm tội mà con cháu lãnh hậu quả đã ăn sâu vào tâm thức người Do Thái, chính vì thế mà các môn đệ của Chúa Giêsu cũng không là một ngoại lệ khi hỏi Người.
Tuy khác với kiểu thuyết nhân quả của nhà Phật, nhưng người Do Thái khi quan niệm bệnh là do tội bắt nguồn từ việc tin rằng Thiên Chúa thưởng phạt đến ba bốn đời, dù các ngôn sứ đã lên tiếng chống lại quan niệm “cha ăn nho xanh để con bị ê răng” đó. Và cũng vì từ quan niệm trên, họ đã tôn thờ một Thiên Chúa nghiêm khắc đến mức tàn ác.
Cha Anthony de Melo từng trả lời một cách hài hước rằng: “Con người sinh ra Thiên Chúa và cũng chính con người giết chết Thiên Chúa”. Đúng vậy, người Do Thái xưa đã dựng nên một Thiên Chúa theo ý họ và vẽ ra một Đấng Cứu Thế phải thoả mãn tham vọng của họ, nên cũng chính họ đã giết chết một Thiên Chúa yêu thương và họ loại trừ một Chúa Giêsu khác với quan niệm của họ.
Chúa Giêsu đã khẳng định, anh mù kia không hề do tội lỗi anh hay cha mẹ anh mà là ĐỂ CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA ĐƯỢC TỎ HIỆN nơi anh. Như vậy, Người vừa nhằm đánh tan quan niệm sai lầm của người Do Thái, vừa nhằm cho thấy vị trí và vai trò của từng nhân vị trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng thế, vẫn muốn thấy một Thiên Chúa đoán phạt cách nhãn tiền mà không thấy được chính mình đáng tội trước một Thiên Chúa giàu tình thương. Chúng ta dễ dàng khinh miệt coi thường một người nào đó kém may mắn hơn chúng ta.
2. Một sự đối nghịch.
Một cách ngầm ý ở đây là tác giả Tin Mừng cho chúng ta thấy sự nghịch lý: Anh mù cả đời sống kiếp mù loà thể xác (như lời mấy kinh sư nói về anh) và không được ăn học lại “thấy” được Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến (x. Ga 9,30-33); còn những kinh sư Do Thái sáng mắt và có bằng cấp Thánh Kinh kia lại không thấy được Đức Giêsu bởi đâu mà đến.
Thật ra, chính sự ghanh tị và tham vọng, sợ lung lay cái ghế và cạn mất cái nồi, đặc biệt, đường lối của Đức Giêsu không thoả mãn tham vọng của họ, nên họ đã không nhận ra và cố tình không nhận ra Đức Giêsu. Con mắt tâm hồn của họ ra mù tối, như lời Chúa Giêsu đã nói với họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn! “ (Ga 9,41).
Vì sự ghanh ghét, nên chuyện anh mù được sáng mắt đã được các kinh sư “chuyện bé xé ra to” với cái lý do “khỏi bệnh trong ngày sabat” để nhân cơ hội đó mà tìm cớ kết án Chúa Giêsu. Và chính anh mù cũng bị bị vạ lây, bị coi như là phạm nhân và bị trục xuất vì đã dám khẳng định về Đức Giêsu.
Thời nào cũng thế, khi đã ghen ghét đối nghịch nhau, thì người ta quan trọng hóa mọi chuyện và tìm mọi kẽ hở dù nhỏ nhất để hại nhau. Người ta cũng dễ “giận cá bằm thớt” mà dùng cả những cách đê hèn nhằm dằm mặt nhau.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhìn nhận ra mọi nhân vị hay mọi biến cố xảy đến đều là công trình nhiệm mầu của Chúa, để chúng con tin tưởng và phó thác cho Ngài. Amen.
NĂM B
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 3,14-21
Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
II. SUY NIỆM
“GIƯƠNG CAO LÊN”
Triết học cổ đại Hi-lạp, đặc biệt Socrate, Platon và Aristote, thường sử dụng lối văn đối thoại để chuyển tải tư tưởng. Tin Mừng Gioan cũng từng sử dụng lối văn đối thoại này, khi kể lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô, hầu chuyển tải ý nghĩa về ơn cứu độ.
Trong câu chuyện đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô được Tin Mừng tường thuật hôm nay, Chúa Giêsu xác định thập giá mà Người phải chịu treo lên để hết thảy những ai tin vào Người sẽ được cứu độ, đồng thời khẳng định tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian không phải để luận phạt mà là để cứu thế gian.
1. Con Người sẽ phải được giương cao lên…
Điều Chúa Giêsu mặc khải thật rõ ràng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Có lẽ đây là nét độc đáo nhất chỉ gặp thấy nơi Tin Mừng Gioan, con đường linh đạo này có một mức độ quyết liệt hơn, vì trong khi ba Tin Mừng Nhất Lãm nói đến việc muốn đạt đến Ơn Cứu Độ phải vác lấy thập giá, còn đối với Tin Mừng thứ Gioan đòi phải được “giương cao lên” nghĩa là không chỉ vác mà còn phải bị treo lên, chịu đóng đinh vào khổ giá.
Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất Lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng Gioan cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương cao lên” (x. Ga 3,14; 8,28; 12,32).
Con Người được giương cao lên, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn Cứu Chuộc qua khổ giá, mà Người nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Người.
Theo chiều ngang, với cách nói nơi Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Gioan lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là phải cùng đóng đinh chính mình vào thập giá như Chúa Giêsu.
Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến Ơn Cứu Độ.
2. Để thế gian được cứu độ…
Trong cách nhìn nhân loại, ai trong chúng ta nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất, thì chúng ta sẽ coi nó như là tất cả của đời mình, của cả cuộc sống mình, của cả giống nòi mình, nên chúng ta sẽ hết sức cung phụng nâng niu, bằng mọi giá phải bảo vệ nó, và chỉ chấp nhận san sẻ khi cho đứa con xây dựng gia đình với một người con gái để duy trì dòng tộc.
Trong mầu nhiệm Thiên Chúa, Chúa Cha đã đản sinh ra Chúa Con, và Chúa Con là đứa Con Duy Nhất của Chúa Cha từ đời đời. Nhiều lần Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện đã thân thưa rằng: Con yêu Cha và như Cha đã yêu Con… Và vì yêu thương con người, Chúa Cha đã cho đứa Con Duy Nhất của mình đến với thế gian. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được “văn Chương Gioan” coi Chúa Giêsu như là Tân Lang và Giáo Hội là hiền thê của Người, bởi Chúa Giê-su qua công trình cứu chuộc đã cưới “cô dâu nhân loại” về cho Thiên Chúa Cha.
Nhân loại là con Thiên Chúa theo nghĩa sáng tạo, chứ không theo tử hệ đản sinh như Chúa Con. Nhân loại đó đã ra hư hỏng, nên Chúa Cha đã sai Con mình đến để cứu chứ không phải đến để phạt.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.
Giống như hai người con, một người lo làm việc vì yêu thương bố, một người bất đắc dĩ phải làm cho bố vì sợ bố đánh, dẫn đến một bên đạt được niềm vui nhẹ nhàng, còn người kia cảm thấy nặng nề chán nản. Cũng thế, khi đón nhận thánh giá Chúa vì niềm tin vào Ơn Cứu Độ thì thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và con người vui vẻ vác đi theo Chúa; ngược lại, nếu ai vác thánh giá vì sợ luận phạt thì thánh giá sẽ nên nặng nề và tuyệt vọng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chấp nhận được giương cao lên, là chấp nhận đóng con người tội lỗi của mình vào thập giá Chúa, để sau khi chết đi cho tội lỗi, chúng con được trở nên con người mới. Xin cho chúng con cũng biết “giương cao lên” là vượt lên trên mọi sự thấp hèn xấu xa của thế gian, để sống cho Chúa và cho mọi người. Amen.
NĂM C
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 15,1-3.11-32
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
Đức Giê-su liền kể cho họ dụ ngôn sau đây: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
“Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. .. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.
“Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
“Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”
II. SUY NIỆM.
“HÒA GIẢI”
Chúa Nhật IV Mùa Chay quen gọi là Chúa Nhật Letare. Letare là chữ Latin, chữ đầu tiên của bài Ca Nhập Lễ hôm nay có nghĩa là “hãy vui lên” được trích từ Is 66,10. Hiểu một cách vắn tắt là “Chúa Nhật Vui”, nhưng để có được niềm vui trọn vẹn, thì điều kiện cần và đủ là khi ai nấy có được sự giao hòa với Thiên Chúa và không có xích mích gì với tha nhân. Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta sống đời sống tương quan đó.
Tại một xứ đạo kia, hôm nọ, trước giờ thánh lễ ngày Chúa Nhật, trước cổng nhà thờ có hai bà đang đứng chửi nhau về một chuyện xích mích trước đó mà hôm nay nhân dịp đi lễ hai bà chạm mặt nhau. Lúc cha xứ bắt đầu thánh lễ, một bà vội chạy vào nhà thờ, vừa chạy vừa mặc áo dài vào, nhưng không quên ngoảnh lại bảo:
– Mày đợi đấy, tao mới xưng tội, để tao vào xem lễ và rước lễ cái đã, rồi ra chết với tao !!! (Chứng kiến cảnh này, bần đệ tự hỏi, bà kia chắc vào rước lễ để lấy sức ra chửi tiếp…?)
Giao hòa với Thiên Chúa thì xem ra dễ, vì Thiên Chúa “vô hình”, để rồi nhiều người như một thói quen chịu các nghi thức bí tích qua loa chiếu lệ mà không có sự chân thành và cốt để an tâm. Trong khi giao hòa với tha nhân hữu hình sống chung sống đụng với nhau thì lại coi như chuyện xa xỉ.
Đọc bài đọc I (sách Giô-su-ê), nhớ lại Dân Do-thái ngày xưa như người con phung phá được Chúa đưa về Đất Hứa và cất đi nỗi ô nhục nô lệ Ai-cập, nhưng rồi họ không thể sống an bình được với lân bang, và ngay cả ngày hôm nay cuộc chiến dai dẳng với người Palestine vẫn xảy ra hằng ngày.
Bài đọc II (thư thứ II gửi giáo đoàn Cô-rin-tô), thánh Phao-lô nói rằng, qua Đức Ki-tô, chúng ta hòa giải với Thiên Chúa và Người trao cho chúng ta sứ vụ hòa giải.
Đặc biệt bài Tin Mừng (theo thánh Lu-ca), dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, làm nổi bật lên hình ảnh một Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, chờ đợi người con tội lỗi trở về để tha thứ và cho được giao hòa với Thiên Chúa và giao hòa với cộng đồng. Đồng thời, mời gọi người anh em đồng loại cùng tha thứ và giao hòa với nhau.
Như thế, trái ngược với cái nhìn loại trừ của các kinh sư Do Thái, khi họ bàn tán xầm xì với nhau về việc Chúa Giêsu đã đón nhận và đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, Chúa Giêsu trả lời các kinh sư bằng dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, qua đó lột tả hết đời sống tương quan, sự yêu thương tha thứ của Thiên Chúa và mời gọi con người cùng sống tha thứ và giao hòa với nhau:
+ Hình ảnh người cha nhân hậu luôn ra đứng trước cửa chờ đợi và chuẩn bị đầy đủ đồ đẹp và bê béo, đằng đẵng đợi chờ đứa con trở về để phục hồi nhân phẩm cho con. Người cha là là hiện thân một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, luôn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân trở về để tha thứ và phục hồi lại quyền làm con cho họ.
+ Hình ảnh người con thứ là một người con quyết ra đi có chủ ý, dù không từ nhận cha mình, không cắt đứt với anh mình, nhưng nó muốn bỏ nhà cha và xa anh em để ra đi khẳng định mình bằng những gì mình mang theo (dù đó là của cha cho), muốn tự lập và tự do thoải mải ngoài luân thường đạo lý. Đây là mẫu người dù không từ chối Chúa và Hội Thánh, nhưng muốn tự mình giải thoát, tin vào khả năng mình (mặc dù khả năng đó là do Chúa ban), muốn vượt ra ngoài giáo huấn Tin Mừng và lề luật Hội Thánh để được tự do phóng khoáng và giữ “đạo tại tâm”.
+ Riêng người con cả, tưởng là anh gần gũi cha nhất nhưng lòng anh thực sự rất xa cha. Đây là hình ảnh phản diện nhất về sự GIAO HÒA mà chúng ta cần quan tâm suy nghĩ hơn:
Mới đây, một tòa án tại Sài Gòn xử một phạm nhân tái phạm tội buôn bán ma túy và phạt anh ta 10 năm tù giam. Quan tòa hỏi tại sao anh tái phạm sau khi mãn hạn tù? Anh ta trả lời:
“Ra tù, tôi rất muốn hoàn lương sửa đổi để làm ăn lương thiện, nhưng người ta không cho tôi cơ hội. Tôi làm giấy xin cơ quan công quyền chứng nhận để được đi làm công ty mà cũng không chịu chứng giấy cho tôi… Vì bị người ta thành kiến và xa lánh, nên tôi chán nản và lại sa lầy vào đường cũ…”
Phạm nhân kia nói lên lời bào chữa, nghe xong thật đau lòng, nhưng đó là sự thật của nhiều người chúng ta, phản ảnh qua chân dung “người anh cả” mà dụ ngôn Tin Mừng kể đến:
– Trong khi người cha tha thứ và vui mừng vì con mình trở về, thì anh lại giận dỗi loại trừ em mình.
– Trong khi người cha mở tiệc ăn mừng và phục hồi quyền thừa tự cho đứa con lầm lạc, thì anh ruột lại từ chối vào ăn uống với em và không nhận em.
– Trong khi ngươi cha tha thứ và quên hết chuyện quá khứ, thì anh cả nhắc lại và phân bì…
– Người cha sống yêu thương con, nhưng đứa con cả lại sống như một người nô lệ (hầu hạ cha…).
– Người cha hạ mình để đến với từng đứa con, chạy ra ôm đứa con thứ, chạy đến mời con cả vào nhà. Trong khi người anh lại ganh tị và lấy mình làm chuẩn để phân bì. Người anh tự cho mình là tốt để rồi lên án em và trách cha không công bằng.
Còn chúng ta thì sao?
– Chúa sẵn sàng quên hết quá khứ của người tội lỗi, còn chúng ta thì bới móc lên, mang lấy thành kiến – yên trí cả đời.
– Chúa đón nhận, tha thứ và tạo cơ hội cho tội nhân trở về, còn chúng ta kết án và loại trừ người anh em, con cùng một Cha trên trời
– Có thể chúng ta cũng đang mang tâm trạng như người con cả, chúng ta vẫn đi nhà thờ đi lễ, vẫn chu toàn các giới răn lề luật, không hề trái bao giờ, nhưng chúng ta lại không hiểu được lòng Cha, không cảm nhận được tình yêu của Người, lòng chúng ta đã xa Người, và điều khiến người cha đau khổ hơn nữa là khi thấy những người con không hòa thuận với nhau.
– Có thể chúng ta cũng giống như người con cả khi chúng ta trách móc Thiên Chúa không công bằng, khi chúng ta nhìn anh em xung quanh như là người xa lạ với mình như là người dưng nước lã và ghanh tỵ với những thành công của người anh em…
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay đặc biệt nói lên tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ, đi tìm, chữa lành và đón nhận tội nhân trở về. Nếu lúc này còn những ai đang lạc bước trong tội, chúng ta đừng tuyệt vọng, hãy tin tưởng vào Chúa và đưa tay cho Người dắt về. Lại nữa, để được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cuần biết bao dung, đón nhận và tạo cơ hội cho tội nhân trở về.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mặc lấy tâm tình của Chúa, biết học nơi Chúa cái nhìn bao dung và không thành kiến với mọi người, để chúng con không ngần ngại đến với những người tội lỗi và đem họ về với Chúa. Amen
Discussion about this post