Ngày 25 tháng 12
ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH
LỄ ĐÊM
I. ĐỌC TIN MỪNG: Lc 2,1-14
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
II. SUY NIỆM
“TÌNH YÊU CỨU ĐỘ”
Đọc bài Tin Mừng thánh lễ Đêm Giáng Sinh hôm nay, tôi chợt nhớ đến hình ảnh ngày 13 tháng 6 hằng năm tại đền thánh An-tôn Trại Gáo (Giáo phận Vinh). Dịp lễ này, khắp nơi đổ về dự lễ có khi lên đến cả mấy chục ngàn người. Ai đến sớm vào hai ngày trước thì còn tìm được một chỗ kha khá, ít ra là có thể tìm được chỗ qua đêm trên nền gạch trong sân đền thờ; còn những người đến sau thì phải tìm chỗ rất xa tận trên sườn núi, hay ngoài cách đồng. Đã về nơi đây dự lễ thì phải chấp nhận mọi thiếu thốn, đặc biệt khi phải tìm chỗ ngủ ở sườn núi hay ngoài đồng, không mùng mền hay điện nước, ai cũng như ai chỉ có mảnh bạt hay tấm áo mưa mang theo trải lên sỏi đá. Dân cư xung quanh đền thánh An-tôn không có nhiều các dịch vụ đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi của khách, nên giàu hay nghèo cũng như nhau, nhưng ai nấy đều vui vẻ hòa chung với nhau trong một niềm vui tạ ơn Chúa qua lời chuyển cầu của thánh An-tôn.
Trở lại với bối cảnh thành Bê-lem xưa trong dịp kiểm tra dân số, có lẽ cũng vì không đủ chỗ trọ tốt vì lượng người đổ về đây quá nhiều, nên thánh Giuse và Mẹ Maria đành tìm chỗ trú qua đêm nơi một chuồng bò hay một hang đá cô quạnh chăng, nhất là khi Mẹ Maria đã đến ngày sinh nở?
Có một điều chắc chắn là Con Thiên Chúa đã chọn sinh ra nơi tột cùng của sự nghèo hèn thiếu thốn. Con Thiên Chúa đi vào đời, sinh vào một quốc gia và một thể chế Tôn Giáo, nhất là đất nước và tôn giáo đóng vai trò khởi đầu ơn cứu độ, thì đương nhiên nhập gia tuỳ tục. Chúa Giêsu nhập thể và nhập thể cách trọn vẹn khi Người mang lấy một thân phận con người, sinh ra nơi một gia đình, giữ mọi tập tục lễ nghi.
Khắp nơi trên thế giới ngày hôm nay, những người ngoài Ki-tô giáo cũng chia sẻ niềm vui Giáng Sinh, người thì nhân cơ hội kết nối tình thân hữu qua cánh thiệp, món quà hay lời cầu chúc, kẻ thì dùng dịp Giáng Sinh như một thời cơ phát triển thương mại, người khác chỉ đơn giản vui giáng sinh vì hình ảnh một em bé dễ thương mỉm cười nằm trong những máng cỏ được trang trí đèn nến lung linh…
Nhưng ít ai hiểu được ý nghĩa căn cốt của việc Con Thiên Chúa đi vào trần gian trong sự tận cùng của sự khó nghèo và hèn kém nhất của xã hội. Để lý giải cho vấn đề này, chúng ta cùng tập chú suy niệm qua hai ý sau đây:
1. Ý nghĩa tình yêu cứu độ.
Nhiều người vẫn thắc mắc rằng, nếu Thiên Chúa quyền năng thì chỉ cần ở chốn trời cao phán xuống một lời thì cứu độ được thế gian, cần gì phải chọn cách nhập thể vào nơi tục lụy và gánh lấy kiếp khổ đau như vậy…?
Với lối trả lời theo thần học có lẽ cao siêu quá nên nhiều người khó chấp nhận, vì thần học trả lời rằng: “Chúa Giêsu chọn phương cách nhập thể là vì muốn cho con người biết rằng, con người có một giá trị rất cao quý mà Ngài không ngại mặc lấy thân xác con người, và cũng qua sự nhập thể Ngài nâng phẩm giá con người lên”. Chúng ta có thể đưa ra một lối giải thích bình dân qua ví dụ minh họa như sau: Cũng như một chàng trai muốn tìm kiếm bạn đời, mà cứ ở một chỗ, không đến nhà cô gái, không tìm gặp nàng, không trao đổi tìm hiểu nàng, mà cứ ở nhà gọi điện thoại, gửi tin nhắn, thư điện tử… để tỏ tình, thì làm sao cô gái kia nhận lời được. Hơn nữa, phần lớn người Việt Nam còn có tục phải đi làm rể, thì mới có cơ hội cưới được nửa kia của đời mình. Chúa Giêsu cũng thế, nếu Người cứ ở trên trời nói vọng xuống: “Ta yêu các con, Ta sẵn sàng chết vì các con…” thì làm sao con người kiểm chứng được tình yêu đó và đáp lại được. Vì thế, Chúa Giêsu phải xuống với con người, cùng chấp nhận kiếp sống, cùng đồng hành chia sẻ và sẵn sàng hy sinh để cứu con người là đối tượng mà Người yêu.
2. Cảm thông với thân phận yếu hèn của con người.
Có thể nói, sẽ rất khập khễnh trong tình yêu giữa Thiên Chúa và thụ tạo nếu Thiên Chúa giữ vai vế của Thiên Chúa để yêu, nên Người đã hạ cố xuống ngang hàng với con người mới có thể cảm thông và chia sẻ được.
Có câu chuyện kể rằng: “Một ngày kia thái tử Suseig đi dạo qua cánh đồng của Mada, tình cờ trên đường đi thái tử và đoàn tùy tùng gặp một cô thôn nữ đang gánh lúa về qua con đê đầu làng. Thái tử nhìn theo không chợp mắt và lòng thấy xôn xao khó tả… Về nhà thái tử ra ngẩn vào ngơ, nhiều đêm không ngủ và nhiều lần muốn xin vua cha để đi gặp cô thôn nữ ngày nào. Thấy diện mạo của thái tử mỗi ngày một khác đi, vua Erèp lo lắng và triều đình cũng xôn xao lo cho sức khỏe của Suseig. Vua Erèp liền triệu tập các quan từng tháp tùng thái tử đi dạo và hỏi han mới hiểu sự việc xảy ra như thế, vua biết Suseig không có bệnh gì mà chỉ là “đang yêu” mà thôi. Vua ngỡ ngàng không hiểu tại sao trong triều đình có nhiều công nương xinh đẹp thì thái tử không yêu, lại để lòng thương nhớ một cô thôn nữ xa xôi, quê mùa và chỉ xứng với hàng nô lệ. Nhưng vì là Quý Tử nên vua vẫn chiều lòng Suseig và hy vọng qua cuộc hôn nhân này, sẽ hàn gắn được những rạn nứt trước đây, vua sẽ nhân cơ hội ấy mà tha bổng tội bất trung cho gia đình Nada, đồng thời xóa bỏ lệnh cấm vận và mở cửa ngoại giao với họ.
Được vua ban lệnh, thái tử Suseig hồi hộp chuẩn bị lên đường, nhưng một vị tướng cao niên đã hỏi thái tử:
Thưa điện hạ! Có chắc là cô gái đó sẽ nhận lời cầu hôn của điện hạ không?
– Ta chắc là như vậy.
Nhưng nếu điện hạ đi với tư cách là một thái tử đầy quyền lực oai phong, thì cô gái đó chấp nhận kết hôn chỉ vì sợ hoặc vì ham giàu sang danh vọng?
– Vậy thì ta sẽ cắm lều ở trong làng với nàng, ta sẽ cùng lao động khổ cực, chia sẻ những vất vả như một người hàng xóm thực thụ để dần dần chinh phục trái tim nàng.
Nhưng thưa điện hạ! Lỡ nàng đã có người yêu và kẻ tình nhân sẽ giết điện hạ thì sao?
– Không sao cả, nếu có rủi ro như vậy, lúc ta ngã xuống mà được nghe nàng thốt lên “I love you!” thì ta đã mãn nguyện rồi.
… Và thái tử Suseig đã đến, đã yêu và từng bị ngã xuống, đã được yêu, đã cưới được cô dâu về cho vua cha”.
Thiết nghĩ, nếu Chúa Giê-su đến trần gian trong tư cách một ông hoàng, hay sinh hạ vào nơi cung triều hoa lệ, thì Người có thể cảm thông được kiếp dân đen nghèo hèn tội lỗi không?
Vâng, chính vì thế mà Con Thiên Chúa đã đi vào trần gian trong thân phận nghèo hèn thiếu thốn, để cứu chuộc con người và làm cho cuộc đời mang một ý nghĩa mới trong Ơn Cứu Chuộc của Người.
Lạy Chúa Giê-su, đêm nay, đêm thánh vô cùng, đêm mà Chúa đã giáng sinh vào nơi nghèo hèn tội lỗi để thánh hóa kiếp lầm than của nhân loại, thành vương quốc Nước Trời, thành dân thánh và mọi người trở nên người nhà và là anh em với Chúa. Xin cho chúng con cũng biết sống tinh thần nhập thế như Chúa, là hòa mình vào mọi kiếp đời bất hạnh, hầu giúp mọi người có được phẩm giá xứng đáng, và đặc biệt hơn nữa là trở thành con cái Chúa. Amen.
LỄ BAN NGÀY
I. ĐỌC TIN MỪNG: Ga 1,1-18
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành
ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gio-an.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:
“Đây là Đấng mà tôi đã nói:
Người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.
Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
II. SUY NIỆM
“NGƯỜI ĐÃ ĐẾN NHÀ MÌNH
NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC ĐÓN NHẬN”
Thời Phong Kiến xưa, có những vị minh quân ngoài việc thiết triều bàn nghị việc nước, điều khiển việc quốc gia đại sự, có vị bởi muốn hiểu nhân tình thế thái thế nào nên vi hành vào chốn nhân gian. Các vị cải trang thành một anh học trò nghèo đem một vài võ vệ bí mật đi theo để đi vào những nơi dân tình khốn khổ, nhằm biết đời sống của dân và lòng dân thế nào (chẳng hạn vua Lê Thánh Tông – Nước Việt 1460 – 1497, và một số vị vua đời nhà Thanh [Càn Long, Khang Hi] – Trung Quốc). Thường thì không ai nhận ra vua và thậm chí có vị còn bị các quan xã bắt giam mỗi khi lên tiếng chống lại sự bất công của dân mình trước sự nhũng nhiễu của cường hào.
Câu chuyện vi hành của các minh quân trên cho ta hai ý để suy niệm về Tin Mừng lễ Giáng Sinh hôm nay:
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 14).
Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,14)
1. Ngôi Lời đã hóa nên xác phàm.
Để đi đến với thần dân, các vị minh quân phải hóa trang thành một người bình thường mới có thể trà trộn vào trong dân để hiểu biết và đồng cảm được với cảnh sống của dân. Con Thiên Chúa từ trời cao muốn đi vào trần gian để đồng cảm và giải thoát dân khỏi áp bức bạo tàn, khỏi nô lệ cho ma quỷ và tội lỗi, thì Người phải hạ thân mặc lấy xác phàm. Muốn Nhập Thế thì Chúa phải Nhập Thể, đó là ý nghĩa đầu tiên của việc Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người.
Nhờ đó «Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa» (Ga 1,12. Thật vậy, Chúa làm người để con người được thông phần vào bản tính thần linh của Chúa mà chiêm ngưỡng vinh quang Người (x. 2Pr 1,4). Thánh Irene giải thích: “Con Thiên Chúa trở thành con cái loài người, để con cái loài người được trở nên con Thiên Chúa”. Còn thánh giáo phụ Clémẹnt (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) lại quả quyết mạnh hơn: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm chúa”. Khi nói đến quyền làm chúa của con người, các giáo phụ xác quyết lại tình trạng con người khi phạm tội nguyên tổ đã mất «quyền làm con» và «quyền làm chủ», trở nên «nô lệ» cho ma quỷ, xác thịt và tội lỗi. Thì đây, khi Đấng Cứu Độ đến là ban lại «quyền làm con Thiên Chúa», và giải phóng con người khỏi «nô lệ» ma quỷ, đặc biệt là «làm chủ» trên ma quỷ, thế gian và tội lỗi. Không những thế, từ nay con người còn trở nên nghĩa tử và đồng thừa tự với Đức Kitô.
2. Người nhà không đón nhận.
Không nhận ra vua là vì ai cũng chung một quan niệm vua thì oai phong lẫm liệt khoác vương bào ngồi trên kiệu có quan quân tiền hô hậu ủng. Vua thì không thể nào là khố rách áo ôm không nhà không cửa… Đó cũng là quan niệm chung của người đương thời với Chúa Giêsu. Họ quan niệm Đấng Cứu Thế đến phải là rất quyền lực và oai phong như Vua Đa-vít đến đánh dẹp Rôma và lên ngôi hoàng đế, nên không chấp nhận một Đấng Cứu Thế khiêm nhường hiền hậu như Đức Giêsu được.
Chính vì thế mà như Tin Mừng Gioan viết: Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,14).
Không đón nhận là vì ai cũng đang tìm kiếm một Đấng giàu sang vinh hiển quyền năng, chứ làm sao chấp nhận được một Hài Nhi chào đời trong một hoàn cảnh nghèo đến mức không thể nghèo hơn được nữa. Đến nỗi dấu để nhận ra Người không phải trên xa giá kim long mà là «Hài Nhi nằm trong máng cỏ».
Không đón nhận là vì ngày hôm nay, chính chúng ta đang tiếp tục vẽ ra một vị Thiên Chúa làm sao cho hợp với đam mê của mình, chúng ta ham quyền lực nên tôn thờ một kiểu Thiên Chúa uy quyền đánh phạt, chúng ta ưa danh vọng, nên vẽ ra Thiên Chúa giàu sang quyền quý…
Không đón nhận là vì chúng ta muốn một Thiên Chúa sinh ra theo ý mình, đồng nghĩa với việc chúng ta giết chết một Thiên Chúa đích thực, là một Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa chịu đóng đinh và là Thiên Chúa của người nghèo.
Hệ quả là cũng như những người Do Thái xưa, chúng ta quan niệm những vị đại diện Chúa sai đến, phải là oai phong hơn người, và chúng ta dành cho các vị một khoảng cách rất xa so với những người thân cận đang cần đến chúng ta giúp đỡ.
Đáng trách hơn là không thiếu những người “được coi là đại diện Chúa”, như «các đấng các bậc» đã tự trang bị cho mình một sự vượt trội người khác, thay vì nổi trội về lòng mến và kiến thức về Chúa, thì lại lo sắm sửa cho mình những tiện nghi sang trọng, để được mọi người kính nể, và tự phân cấp thành một bậc cao hơn trên dân Chúa, không thể đến với người nghèo và hạ mình cúi xuống phục vụ những người đau khổ. Như thế, chẳng khác nào chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa ‘thần tài’ và giết chết Thiên Chúa là Đấng đã chết đi vì những người hèn kém nhất trong xã hội.
Tóm lại, Mừng biến cố Chúa Giáng Sinh để khởi đầu một kỷ nguyên mới của bình an và hạnh phúc, thì cũng muốn mỗi người chúng ta một khởi đầu mới là dành cho Chúa một nơi ở trong trái tim mình, dành cho Chúa một chỗ trong đời sống mình để Giáng Sinh. Đồng thời loại bỏ những gì biến dịp giáng sinh thành dịp để ăn chơi, hưởng thụ khoái lạc, kinh doanh buôn bán, chạy theo các giá trị phù du…
…
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con, bởi vì chúng con được ví như “người nhà” của Chúa, nhưng nhiều lần Chúa đến viếng thăm tâm hồn chúng con thì chúng con lại từ chối vì không nhận ra Chúa, bởi tâm trí chúng con quen với tư tưởng một Thiên Chúa quyền lực thỏa mãn đam mê của chúng con hơn là một Thiên Chúa Tình Yêu. Amen
Hiền Lâm
CHUNG
NIỀM VUI GIÁNG SINH
Kính thưa quý ÔBACE !
Giờ này, lúc này đây, có thể nói là giây phút vui nhất của chúng ta, không riêng gì Người Công Giáo chúng ta, mà còn là mọi người thiện chí trên thế giới đều vui và bình an như lời hát thiên thần:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Niềm vui đó thể hiện qua mọi hình thức bề ngoài từ việc trang trí hoa nến lung linh với các biểu tượng giáng sinh khắp hang cùng ngõ hẻm đến các đại lộ phố phường, và đặc biệt nơi các nhà thờ Ki-tô giáo.
Niềm vui đó thể hiện nơi mọi tâm hồn háo hức dọn mình chuẩn bị gặp Chúa Hài Đồng bằng cách xưng tội rước lễ, tham dự phụng vụ, tăng cường nhiều việc bác ái, chia sẻ những món quà giáng sinh đầy ý nghĩa cho những trẻ em nghèo.
Khắp nơi trên thế giới ngày hôm nay, những người ngoài Ki-tô giáo cũng chia sẻ niềm vui Giáng Sinh, người thì nhân cơ hội kết nối tình thân hữu qua cánh thiệp, món quà hay lời cầu chúc, kẻ thì dùng dịp Giáng Sinh như một thời cơ phát triển thương mại, người khác chỉ đơn giản vui giáng sinh vì hình ảnh một em bé dễ thương mỉm cười nằm trong những máng cỏ được trang trí đèn nến lung linh…
Nhưng tại sao Lễ Giáng Sinh, chuyện một trẻ thơ sinh ra trong nghèo hèn cách đây hơn hai ngàn năm mà lại đem niềm vui tràn ngập địa cầu như thế?
Tại sao một biến cố xem ra rất bình thường của một gia đình nhỏ nơi hang Bê-lem lại trở nên phi thường, để rồi cứ lịch sử hàng năm kỷ niệm và tạo nên một niềm vui bất tận như thế?
Đứa trẻ năm ấy sinh ra là ai, mà các thiên thần ca hát, vua quan bái lạy, mục đồng hân hoan, hay nói đúng hơn là từ thần thánh, vương giả đến người nghèo hèn đều vui mừng hạnh phúc?
Kính thưa quý ÔBACE !
Chúng ta có thể trả lời với nhau rằng:
Vui vì: Chúa giáng sinh để con người được làm con Chúa và trở thành anh em cùng một Cha trên trời.
Vui vì: Chúa giáng sinh để đem tình yêu cho con người.
* Niềm vui thứ nhất: Chúa giáng sinh để con người làm con Chúa.
Hiểu được niềm vui này, thì chúng ta cũng trả lời cho vấn nạn tội nguyên tổ là gì, và tại sao phải rửa tội cho một đứa bé vừa sinh ra?
Nhiều người vẫn thắc mắc là đứa trẻ mới sinh ra nó biết gì mà có tội, rồi đem phải đem đi “rửa tội”? Thắc mắc là vì chưa hiểu đúng Bí tích Rửa tội như Giáo lý dạy.
Chúng ta có thể lấy ví dụ: Như một người kia có đứa con trai chuẩn bị cưới vợ, ông hứa sẽ cho người con một lượng vàng để lo tương lai, nhưng tiếc là đêm trước ngày cưới bị kẻ trộm lấy mất lượng vàng, nên ông không còn có mà cho con trai nữa. Và rồi đứa con trai sinh đứa cháu cũng không có lượng vàng kia mà cho cháu, rồi đời cháu, chắt, chút, chít… mãi mãi không có lượng vàng đã mất và sống trong nghèo khó. Cho đến một lúc có một đại gia thương tặng cho một lượng vàng khác.
Giáo Lý Công Giáo định nghĩa: “Tội nguyên tổ là làm cho con người mất sự sống siêu nhiên và mất quyền làm con Thiên Chúa…” Còn “Bí tích Rửa tội là Chúa Giê-su trả lại sự sống siêu nhiên phục hồi quyền làm con Thiên Chúa cho chúng ta…”
Như vậy là ông bà nguyên tổ giống như ông bố kia mất đi rồi thì lấy gì truyền cho con cháu, và Chúa Giê-su đến giống như ông đại gia kia cho lại cái đã mất.
Vậy nên, bế đứa con đến rửa tội, không phải để tha mà là để nó được phục hồi QUYỀN LÀM CON THIÊN CHÚA, kết nạp vào Giáo Hội.
Túm lại, giờ thì chúng ta thấy niềm vui lớn lao chưa? NHỜ CHÚA GIÊ-SU HẠ SINH ĐẾN VỚI CHÚNG TA, MÀ TẤT CẢ CHÚNG TA KHÔNG CÒN NÔ LỆ CHO MA QUỶ, THẾ GIAN, XÁC THỊT NỮA, MÀ LÀ TRỞ THÀNH CON THIÊN CHÚA, LÀ NGHĨA TỬ, LÀ EM CỦA CHÚA GIÊ-SU VÀ LÀ ANH EM VỚI NHAU CON CÙNG MỘT CHA TRÊN TRỜI. Tuyệt vời vời !!!
* Niềm vui thứ hai: Chúa giáng sinh để đem tình yêu cho con người.
Hiểu được mầu nhiệm Tình Yêu Giáng Sinh, thì chúng ta mới trả lời được vấn nạn: “Tại sao một Thiên Chúa quyền năng, không ở trên trời phán một lời thì nhân loại được cứu, mắc gì phải nhập thể trong khó khăn nghèo hèn, bôn ba vất vả, chịu đau khổ… thì mới cứu được nhân loại?”.
Xin được lấy ví dụ thế này: Một anh ở quận 1, quen biết và yêu một chị ở quận 12, mà anh ta chỉ messenger, zalo, telegram, chat hay call… mà chẳng bao giờ đến với chị kia, chẳng bao giờ dẫn nhau đi ăn đi chơi, chẳng quan tâm giúp đỡ gì chị, thậm chí xả thân bảo vệ chị khi chị bị ai ức hiếp (phim Tàu toàn chuyện anh hùng cứu mỹ nhân và cô gái đã cảm kích rồi yêu)… túm lại, là anh yêu chị “hôn môi xa” (xin lỗi, ở ngoài Bắc còn phải đi làm rể mệt nghỉ chưa chắc người ta đã gả con gái cho), thì liệu chị ta có nhận ra tình yêu để đáp lại không?
Chúa cũng vậy, ở trên trời nói vọng xuống: “I love you !!!”, thì liệu có ai tin? Biết ổng là ai mà đáp lại? Xin lỗi, xuống đây này, cùng làm kiếp người, sống đồng lao cộng khổ, và hi sinh để chứng minh tình yêu… thì con người mới đáp lại được chứ.
Và Chúa Giê-su đã làm như thế, đã nhập thể làm người, sống kiếp con người, đồng hành với con người… và chết vì yêu con người.
Thưa QOBACE ! Vui thế cơ chứ ! Làm sao không vui khi Thiên Chúa đã xóa nhòa đi sự phân cấp để được yêu chúng ta. Một cô bé lọ lem yêu hoàng tử thì đã là cả thể rồi, nhưng cũng đều là thụ tạo như nhau, trong khi Thiên Chúa và con người là một khoảng cách ngàn trùng thẳm.
Lại nữa, cũng giống như một thanh niên đến hẹn gặp người yêu trong vài một ông lớn có địa vị, một giám đốc thành danh, hay một đại gia tỷ phú… hoặc là với tư cách có quyền ép buộc… thì sự đáp lại của cô gái có thật là tình yêu chân thành không, hay là vì sợ hoặc vì mê giàu, mê tài, mê sắc? Cũng thế, nếu Chúa Giáng Sinh trong nơi hoàng gia vương tộc hay trong nhung lụa tiện nghi, thì tình yêu con người đáp lại chỉ vì sợ và vì lợi mà thôi. Nhưng không, Thiên Chúa Giáng Sinh trong hang đá nghèo hèn với bao thiếu thốn để đồng phận đồng hành với kiếp người, thì tình yêu con người đáp lại mới thật là chân thành và son sắt.
Tóm lại:
Giáng Sinh là Niềm Vui, Giáng Sinh đem lại Niềm Vui và Giáng Sinh đưa nhân loại đến Niềm Vui Vĩnh Cửu là làm cho họ trở thành con Thiên Chúa và biết sống Tình Yêu đáp lại tình Chúa và trao ban cho nhau, cho đến khi đạt tới Niềm Vui Thiên Quốc mai sau…
Discussion about this post