BÀI VIII. TƯƠNG QUAN TRIẾT
1. Triết lý và cuộc sống
Triết là suy tư, là lý thuyết. Đời sống là thực hành, là sống, là sinh hoạt, ăn uống, vui buồn, sướng khổ… Phải sống đã rồi mới làm triết, mới có sức, có giờ để suy tư. Triết giúp suy tư đời sống, giúp sống với một lẽ sống, sống có ý nghĩa.
Triết lý để cập đến mọi vấn đề về con người và đời người. Vì thế thật không ngoa khi ta khẳng định rằng triết lý gắn liền với cuộc sống con người.
Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn. Xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết đúng đắn các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.
Cuộc đời là một thực tại sống động, muôn mặt, nó thay đổi một cách hết sức linh động nơi mỗi người. Hoàn cảnh sống, tính tình, cấu tạo tâm lý, thể lý của mỗi người rất khác biệt nhau, nên không có cuộc đời nào giống cuộc đời nào cả. Vì thế, mỗi người nhìn cuộc đời một cách khác nhau, có lập trường sống khác nhau.
Nếu triết lý là chính cuộc sống, là những suy tư về cuộc sống, để sống cho khôn ngoan, sáng suốt và hạnh phúc, thì hẳn nhiên triết lý rất đa dạng và không bao giờ chấm hết được, vì không bao giờ người ta khám phá được chân lý toàn diện về cuộc đời cả. Vì thế, có thể định nghĩa cách khác về triết lý: triết lý là một nỗ lực không ngừng của con người đi tìm chân lý của cuộc đời. Nhưng chân lý luôn luôn vượt thoát khỏi ý muốn chiếm đoạt của con người. Khi con người cảm thấy mình nắm chắc được nó trong tay, thì đó chính là lúc con người thấy nó vuột ra khỏi tầm tay của mình. Vì cuộc sống là một cái gì hết sức sống động, luôn luôn thay đổi, nên không thể định thức nó trong một cách diễn tả hay quan niệm nào được. Nghĩa là không bao giờ cầm nắm nó được.
Cuộc đời của ta hay của bất cứ ai không phải là một ý niệm, một thực tại khách quan ở ngoài mình, nhưng cuộc đời luôn luôn ở trong ta và chính là ta. Và ta chỉ có thể là ta trong hiện tại. Cái ta của quá khứ hoàn toàn vuột khỏi tầm nắm bắt của ta, ta không còn làm chủ nó, không sửa đổi được nó, nó không còn là ta nữa. Còn cái ta của tương lai, ta cũng không làm chủ được, ta không thể biết cái ta tương lai sẽ ra sao, ta hoàn toàn mù tịt, nó chưa phải là ta. Ta chỉ làm chủ được ta trong giây phút hiện tại, ta muốn cái ta hiện tại thế nào thì tùy ý ta, ta muốn nó tốt thì nó sẽ tốt, ta chấp nhận cho nó xấu thì nó sẽ xấu.
Cùng nhìn một vấn đề, nhưng người thì lạc quan, kẻ thì bi quan. Cũng như cùng nhìn một ly nước, người nói : «Ly này đã đầy được một nửa», kẻ nói : «Ly này đã cạn mất một nửa». Cả hai đều đúng, nhưng hai câu nói phát sinh hai thái độ khác nhau và đi tới hai kết quả khác nhau, một kết quả tốt và một kết quả xấu.
Cách nhìn của ta về cuộc đời định đoạt số phận của ta. Một cái nhìn ảm đạm về cuộc đời tất nhiên phải làm cho cuộc đời thêm buồn thảm. Nhưng cái nhìn phấn khởi về cuộc đời ắt phải làm cho cuộc đời thêm vui tươi. Ca dao ta có câu: «Người vui thì cảnh cũng vui, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?»
Con người có thể hưởng lợi từ tư tưởng mình, mà cũng có thể là nạn nhân của tư tưởng mình. Vì thế, người khôn ngoan chỉ nghĩ và nuôi những tư tưởng tốt lành, vui tươi, lạc quan. Còn người khờ dại thích nghĩ và nuôi trong lòng những tư tưởng xấu, buồn thảm, bi quan.
Suy tư về cuộc đời, tạo cho mình một quan niệm về cuộc đời, chính là làm triết lý. Do đó, triết lý quan trọng biết bao đối với cuộc sống! Cuộc đời ta hạnh phúc hay đau khổ, đầy ý nghĩa hay vô nghĩa, đầy hữu lý hay toàn là phi lý… tùy thuộc rất nhiều vào triết lý sống của ta.
Có thể tóm gọn:
+ Triết lý huấn luyện con người.
Một nền triết lý chân chính giúp uốn nắn con người và giúp cho nó làm quen với lối suy nghĩ nghiêm túc. Chẳng hạn:
– Biết phân biệt các khía cạnh khác nhau của một vấn đề;
– Biết diễn tả cách chính xác hơn với những lý chứng có sức thuyết phục;
– Biết chú tâm vào những vấn đề của cuộc sống hơn.
+ Triết lý giải thoát con người.
– Triết lý, nhất là triết lý Đông Phương, nhấn mạnh quan niệm giải thoát: giải thoát khỏi vô minh (sự mê lầm). Vì chính mê lầm này làm nảy sinh tham, sân, si. Từ đó con người, theo quan niệm Phật giáo, sẽ bị lẩn quẩn trong vòng tục lụy.
– Triết lý chuẩn bị cho con người một lối đi vào huyền nhiệm, bằng cách nêu rõ đâu là cứu cánh tối hậu của con người, phương cách nào có thể thực hiện việc phối thiên, huyền đồng với Thượng Đế hay đạt tới chân tâm.
2. Triết lý và tôn giáo
Triết là suy tư, là thuyết, tìm lý, là lý thuyết… Tôn giáo trước hết là tìm sống với Đấng siêu việt nào đó (Trời, Phật…). Triết có thể là suy tư về tôn giáp, thẩm định giá trị mỗi tôn giáo, cũng như triết có thể và phải thẩm định chính mình. Tôn giáo cũng có một triết thuyết, một quan niệm về vũ trụ, về con người, về Đấng siêu việt, một nhân sinh quan, một vũ trụ quan, ý thức hệ… nhưng tôn giáo đi sâu hơn, cao hơn và xa hơn, tìm sống với Đấng siêu việt.
Khoa học trả lời câu hỏi “như thế nào?” bằng cách giải thích các thành phần cá biệt của thế giới tương quan với nhau ra sao. Còn tôn giáo thì đặt vấn đề “tại sao?” Nó không hỏi “thế giới hoạt động như thế nào?’ mà hỏi rằng “tại sao thế giới lại hiện hữu?”
Ðặc điểm của hai tiếng “tại sao?” là hỏi về ý nghĩa và cứu cánh. Và không người nào có thể trả lời câu hỏi ấy bằng cách chỉ dựa vào các sự kiện kinh nghiệm. John Wisdon (1904-1993), người từng là giáo sư triết tại Ðại học Cambridge, Anh, từ năm 1952 tới 1968 và đồng thời tại các Ðại học Virginia và Oregon, Hoa Kỳ, minh họa tình thế ấy bằng cách kể một câu chuyện như sau:
Có hai nhà thám hiểm cùng đi xuyên qua một khu rừng rậm. Ðột nhiên họ bắt gặp một bãi đất trống giữa rừng, ở đó cỏ dại và hoa mọc chen nhau. Một người nói rằng hoa cỏ đẹp đến thế này tất phải có người làm vườn tới trông nom mảnh đất trống này. Người kia không chấp nhận ý kiến đó, cãi lại. Ðể thấy ai có lý, cả hai nhà thám hiểm chỉ còn biết ngồi xuống và chờ đợi. Nhưng chờ hoài chờ mãi vẫn không thấy xuất hiện người làm vườn nào dù cả hai đã cố sức dùng đủ mọi cách để dò cho ra ông ta.
Một người tiếp tục bác bỏ rằng chẳng có người làm vườn nào cả. Người kia tiếp tục khẳng định rằng phải có người làm vườn nhưng ông ta vô hình và chẳng thể nào dò thấu. Nhưng – và đây là điểm trung tâm của luận cứ – làm thế nào bạn khẳng định có người làm vườn vô hình trong khi hoạt động của ông ta lại để ngỏ cho câu hỏi có ý tưởng rằng hoàn toàn chẳng có người làm vườn nào?
Nhìn chung mà thấy riêng. Trong câu chuyện, cả hai nhà thám hiểm đều có ngay trước mắt họ một chứng cớ độc nhất và có sẵn, thế nhưng mỗi người lại chọn cho mình một cách thông giải khác nhau.
Mỗi người đều có “cái nhìn cá biệt”, và dưới ánh sáng của nó, người ta thông giải vạn vật. Người ta có thể lập luận rằng niềm tin tôn giáo chỉ là “cái nhìn cá biệt” ấy và là một cách sắp xếp những kinh nghiệm của chúng ta về thế giới. Như thế, cái đúng của niềm tin tôn giáo cũng không hơn và chẳng kém chút nào “cái nhìn cá biệt” của bất cứ ai khác, và mọi lập luận đều kết thúc với một câu nói của người nào đó rằng “Ðược thôi, nếu đó là cách mà bạn muốn nhìn nó…”
Trong thực tế, nhiều triết thuyết đã trở thành tôn giáo. Tuy nhiên yếu tố biến một triết thuyết thành tôn giáo không luôn luôn đi đúng với chủ trương nguyên thủy của vị sáng lập triết thuyết. Điều ấy, ta thấy rõ trong trường hợp Đức Phật. Ngài không bao giờ muốn vượt giới hạn của một người đề xuất con người giải thoát. Vậy đâu là yếu tố làm nên tôn giáo?
Trong Cuốn từ điển Tiếng Việt, do NXB Văn Hóa và Thông Tin, Nguyên Văn Đạm đã định nghĩa: “Tôn giáo là sự công nhận một sức mạnh coi là linh thiêng. Nó quyết định một hệ thống tư tưởng của con người về số phận của mình trong và sau cuộc đời hiện tại, do đó quyết định được phần nào hệ thống đạo đức, đồng thời thể hiện bằng những tập quán lễ nghi tỏ thái độ tin tưởng và tôn sùng sức mạnh đó”.
Qua định nghĩa trên, tôn giáo xây dựng trên niềm tin vào một sức mạnh thiêng liêng và được diễn tả bằng những nghi thức tôn thờ. Như thế, tôn giáo ở trong một lãnh vực hoàn toàn khác biệt với triết lý, vì triết lý do nỗ lực của con người đi tìm chân lý với những khả năng thuần nhân loại.
Tuy nhiên con người triết lý cũng là con người tôn giáo. Do đó, triết lý không phải thừa đối với niềm tin tôn giáo, bằng chứng là trong môn thần lý học (théodicée), người ta đã dùng lý luận để giúp con người khám phá ra sự hiện hữu của Đấng Siêu Việt.
Ngoài ra triết lý còn đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích và hệ thống hóa kiến thức tôn giáo.
3. Triết lý và thần học
Triết sử dụng lý trí. Thần học sử dụng triết, nhưng dựa trên đức tin, mặc khải, Lời Chúa, tìm sự thật, đào sâu sự thật về Thiên Chúa mặc khải, soi sáng mãnh liệt hơn khả năng tự nhiên của lý trí tự nhiên, để con người đạt tới cứu cánh cuối cùng của nó là siêu nhiên.
Không ai chối cãi được rằng có sự khác biệt giữa hai bộ môn triết và thần học. Thánh Thomas Aquino đã nêu rõ: “Hai bộ môn thuộc hai loại khác nhau, vì chúng có nguồn sáng riêng, ánh sáng soi dẫn nhà thần học là Đức Tin, còn ánh sáng của triết gia là lý trí”.
Như thế hai bộ môn này, tự bản chất, hoàn toàn đối lập. Thần học không can thiệp vào triết học, vì triết học là lý trí tự nó có giá trị. Nền tảng của triết học là những nguyên lý tối sơ và hiển nhiên (per se evedens). Nó nằm sẵn trong lý trí, trái lại với nguyên lý của thần học là những chân lý mạc khải, rút từ Tin Mừng.
Tuy nhiên giữa triết học và thần học có mối liên hệ chặt chẽ. Vì thế không lạ gì các nhà Kinh viện coi triết học là nô tỳ của thần học (ancilla theologiae).
Đọc qua cuốn giáo lý công giáo, ta thấy có nhiều thuật ngũ triết học, như: bản tính, ngôi vị, bản thể, tùy thể, v.v… Những thuật ngữ ấy được đưa vào giáo lý không do một cá nhân, nhưng do chính công đồng chung của Hội thánh trong các thế kỷ đầu tiên, Nicée, Chalcédoine, Ephèse, Constantinople… Như thế một cách gián tiếp Hội thánh đánh giá cao sự hỗ trợ của triết học cho việc biện hộ, chuyển tải nội dung, giải thích và hệ thống hóa giáo lý Chúa Kitô.
Tương quan giữa triết học và thần học là một đề tài đã được nghiên cứu rộng rãi từ nhiều gốc độ khác nhau, đặc biệt từ các thập niên 1970-1980. Song song với hiện tượng này là sự nở rộ của các trường phái thần học mới như thần học tiên nghiệm, thần học giải thích, thần học phân tích, thần học tương quan liên đới, thần học phụ nữ, thần học giải phóng và các hình thức thần học chính trị, v.v. Một khi thần học gia có nhu cầu cập nhật hóa các vấn đề liên quan đến đời sống đức tin trong bối cảnh xã hội, họ không ngần ngại dùng các phạm trù từ triết hiện sinh, hiện tượng luận, triết ngôn ngữ, cấu trúc luận, triết phân tích, triết phê phán xã hội, v.v. để khai triển các phương pháp thần học thích ứng cho hoàn cảnh của họ.
Cả hai truyền thống triết học và thần học có cùng mối lưu tâm về các vấn đề tối hậu của con người.
Thần học có một lịch sử lâu dài dùng phương pháp suy tư phê phán của triết học để khai triển các chủ đề tôn giáo. Nhưng vì thần học muốn kết nối “đức tin” với “lý trí” cho nên sứ mệnh của nó mang tính nước đôi; thần học dùng phương pháp của “logos” để tìm hiểu và triển khai những gì được mặc khải từ tôn giáo (theos). Như thế sự khác biệt giữa triết học (philo-sophis) và thần học (theo-logos) không phải là tôn giáo nhưng là phương cách mỗi truyền thống tiếp cận các vấn đề tối hậu của tôn giáo.
Thần học và triết học lưu tâm đặc biệt về tôn giáo là vì tôn giáo có khả năng mở rộng chân trời hiểu biết của con người vốn đang sống trong thế giới “bên này” nhưng lại có những cảm thức về những gì thuộc về thế giới “bên kia.” Tôn giáo tồn tại để nhắc nhở chúng ta rằng thực tại không chỉ về cái “là” mà còn cả cái “sẽ là”. Tôn giáo cố gắng bảo trì chiều kích siêu việt của cuộc sống bằng cách đối đầu các vấn đề tối hậu của con người: Làm thế nào sống trong thế giới trần tục này mà con người có thể chạm đến chiều sâu thánh thiêng của hiện hữu? Nên dùng ngôn ngữ nào để nói về Đấng Tối Cao vốn vượt qua mọi giới hạn? Thân phận và ý nghĩa đời người sẽ là gì trong vũ trụ hầu như vô biên và ngẫu nhiên này? Để trả lời các vấn nạn này tôn giáo mời gọi con người dấn thân và phó thác, hành động và dùng ngôn ngữ như thể chúng ta đang “cư ngụ” trong thế giới của niềm tin. Có như thế thì chúng ta mới có thể trải nghiệm và nắm bắt những gì được xem là thánh thiêng và huyền nhiệm.
Triết học Tây Phương cũng muốn tìm hiểu về tính siêu việt và hạnh phúc tối hậu của con người nhưng từ một góc độ khách quan và phê phán hơn. Trong khi tôn giáo đứng trong vòng tròn đức tin thì triết học khởi đầu từ lý trí, vận động khả năng tự nhiên của trí tuệ và các phạm trù để tìm hiểu cách thấu đáo về thực tại. Cả tôn giáo và triết học đều muốn tìm hiểu bản chất và căn nguyên của con người và vũ trụ (cosmos), nhưng tôn giáo theo lộ trình của “mythos” (thần thánh), còn triết học theo tiếng gọi của “logos” (lý lẽ). Sự phân cách này không nhất thiết phải là tất yếu vì ở Đông Phương, Khổng giáo vừa là một tôn giáo (đạo lý) và vừa là một triết lý, nhưng Khổng Tử không nghiên cứu về thần thánh mà về “đạo làm người”. Triết học Tây Phương, khi tra cứu các vấn đề về con người và vũ trụ, không chỉ đặt câu hỏi về “bản chất” của thực tại (siêu hình học) mà còn về khả năng và cách thức con người nhận thức các thực tại đó (tri thức luận), và cả về hạnh phúc con người trong tương quan với thực tại tối hậu (đạo đức học).
Khi sự hiểu biết về niềm tin tôn giáo trở thành hệ thống và có khả năng giải quyết các vấn nạn con người từ lăng kính đức tin thì chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của thần học. Mục đích của thần học là tìm hiểu nội dung của những gì tôn giáo đã đón nhận được qua mặc khải. Do đó, khi nói thần học là “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” (Anselmô: Fides quaerens intellectum) tức là chúng ta thừa nhận rằng thần học có một sứ mệnh nước đôi: vừa dấn thân vào các thực tại tôn giáo, vừa phải dùng các phương pháp suy tư phê phán của triết học. Là một hoạt động tri thức, thần học dùng các phạm trù triết học để minh họa cho tính hợp lý của niềm tin tôn giáo. Thần học cố gắng kết nối niềm tin tôn giáo với bối cảnh xã hội. Khi làm công việc “bắc cầu” này, thần học rút tỉa nội dung từ “mạc khải”, nhưng hình thức thì được vay mượn từ các phạm trù triết học và bối cảnh văn hóa. Là truyền thống học thuật, thần học luôn tận dụng mọi công cụ tri thức để giữ cho nội dung của đức tin luôn được cập nhật và trở thành thực tại sống động chứ không là một “bảo vật” cổ kính trong viện bảo tàng của lịch sử. Khi lối suy tư cũ không còn thích ứng nữa thì phương pháp thần học mới sẽ ra đời. Như thế, thần học luôn mở rộng và hướng về chân trời vô hạn của đức tin và mạc khải.
Cuối cùng, tôn giáo là nỗ lực tiếp cận và nắm bắt thực tại tối hậu của con người, do đó nó có khuynh hướng lôi cuốn triết học và thần học. Nhưng đây là một hành trình không có đoạn kết. Lịch sử cho thấy tôn giáo đã đan quyện triết học và thần học với nhau, tạo thành những cơn lốc tri thức. Một khi các cơn lốc tri thức này lắng dịu xuống thì chúng ta có cơ hội nhận định rõ hơn những yếu tố đã tạo nên sức mạnh của chúng. Nhận thức này có thể giúp chúng ta sẳn sàng đối phó với những thử thách cho tôn giáo trong tương lai.
Tóm lại, triết lý có ít nhất ba vai trò với thần học:
– Vai trò biện hộ và chứng minh
Nếu chúng ta đọc lại các tác phẩm hộ giáo của các giáo phụ và các tiến sỹ công giáo, ta thấy phương pháp lý luận của Aristote được sử dụng một cách rộng rãi.
– Vai trò giải thích
Với phương pháp loại suy, các nhà thần học đã mở lối cho ta khám phá kho tàng mạc khải, Chân lý mạc khải tự bản chấn vượt qua khả năng suy luận của nhân loại. Tuy nhiên căn cứ vào nguyên tắc “qua hình ảnh ta biết thực tại”. Ta có thể qua con người, như hình ảnh của Thiên Chúa, và qua sự vật như dấu vết của Ngài, trí khôn ta có thể hiểu phần nào những thực tại siêu nhiên. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thường xuyên sử dụng phương pháp này để giải thích thực tại khôn dò của nước trời (x. Mt 13).
– Vai trò hệ thống hóa
Theo nghĩa nguyên thủy của chữ khoa học (scientia), điều kiện để trở thành khoa học, thần học phải được trình bày một cách khúc chiết và mạch lạc. Các bộ Tổng luận thần học của thánh Thomas đúng là mẫu mực về vấn đề hệ thống hóa.
Chúng ta cũng không quên nêu lên những hỗ trợ của khoa thần học cho triết học. Sự hỗ trợ này vừa mang tính tiêu cực lẫn tích cực.
Về mặt tiêu cực, thần học phê phán những sai lạc của triết học, khi các triết thuyết được đưa ra đi ngược lại chân lý mạc khải. Nhưng phải chăng như thế thần học cản trở sự sáng tạo của các triết gia? Hẳn không, vì triết lý hàm ẩn ý muốn say tìm chân lý.
Về mặt tích cực, nhờ ánh sáng mạc khải, thần học cống hiến cho triết học những dữ kiện khách quan. Chẳng hạn chân lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa quan trong, những quy tắc luân lý, linh hồn, tự do, v.v… Những dữ kiện khách quan này dĩ nhiên tự mình lý trí cũng có thể khám phá được, nhưng phải lâu hơn và vất vả hơn. Ta có thể sánh vai trò ấy như sao mai đối với hoa tiêu giữa đại dương. Chính hoa tiêu lái chiếc tàu của mình chứ không phải ngôi sao mai, nhưng ngôi sao cũng giúp cho hoa tiêu đưa tàu về đúng bến.
Như vậy: Tương quan giữa triết học và thần học hay giữa đức tin và lý trí là mối tương quan vốn dĩ có sự nâng đỡ, bổ túc cho nhau trong việc kiếm tìm chân lý, nhưng do không phân biệt địa hạt và không tôn trọng tính độc lập tương đối của nhau nên, trong quá khứ và cả hiện tại, đã và đang có những mối xung đột bất dung hòa giữa hai hình thái “tri thức” này. Thật vậy, “đức tin là điều kiện tiên quyết chứ chưa phải là điều kiện đủ của nhận thức. Con người không chỉ tin mà còn suy nghĩ về những điều mình tin. Tin đòi hỏi sự hiểu biết. Đức tin có trước lý trí xét về thời gian, nhưng lý trí cần hơn đức tin về thực chất công việc”. Và “con người là một thực thể có lý trí, nhưng không phải ai và lúc nào cũng giải quyết công việc mình bằng lý trí”. Lý trí con người dù hoàn hảo đến đâu vẫn không thể thấu hiểu hết mọi sự vật hiện tượng trong thế giới hữu hình, chứ chưa nói đến những thực tại vô hình. Như vậy, khước từ đức tin để chỉ vịn vào lý trí, hoặc ngược lại, trong việc tìm biết chân lý, được ví như con chim chỉ có một cánh không thể bay lên được hay như con thuyền chỉ có một mái chèo chỉ xoay vòng tại chỗ. Phải trả lại vị thế ban đầu cho nó. “Niềm tin vượt quá lý trí ở đối tượng; còn lý trí thì vượt quá niềm tin ở phương cách, nên mỗi bên đều có lĩnh vực khác biệt, độc lập. Trong thực tế có những đối tượng cần cho triết học mà không cần cho thần học”
4. Triết lý và khoa học
Triết là tìm ý nghĩa cuộc đời, ý nghĩa thuộc diện siêu hình, thuộc diện thuần lý trí. Khoa học, tự nhiên và nhân văn, nghiên cứu những hiện tượng, những sự kiện mà giác quan ý thức tâm lý, thứ giác quan nội tâm, nội giới, có thể quan sát, thí nghiệm được, kiểm tra được do giác quan ngoại giới, giác quan nội giới… Đối tượng của triết, phương pháp của triết, kết luận của triết thì khác đối tượng, phương pháp, kết luận của khoa học. Tuy vậy, hai bên bổ sung cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau để lý luận, tìm tòi, kiểm tra chính xác hơn. Bổ sung nhưng không mâu thuẫn nhau.
a, Triết học và khoa học là hai bộ môn biệt lập nhưng không tương phản [1].
Nếu ta ngược dòng thời gian lịch sử tư tưởng nhân loại, ta thấy một số lớn các nhà hiền triết và triết gia vừa kiêm luôn khoa học gia. Chẳng hạn các vị sáng lập khoa Kinh Dịch ở Trung Quốc, các nhà vật lý và thiên văn như Thales, Anaximène, Démoncrite… ở Hi-lạp. Dĩ nhiên không phải tất cả các nhà bác học đều là triết gia, nhưng các triết gia thực thụ bao giờ cũng là khoa học gia hay thấu đáo các vấn đề khoa học. George Gusdori nói: “Nhà siêu hình cầm chắc trong tay những thành quả của khoa học và thường chính ông cũng là nhà khoa học. Platon và Aristote thông thạo tất cả các ngành khoa học thực nghiệm thời đó” (Traité de la métaphysique. Armand Colin 1956. P.8).
Tuy nhiên trong thực tế chúng ta không thể đồng hóa khoa học và triết học, vì chúng khác nhau về đối tượng và phương pháp lẫn cái nhìn.
Về đối tượng: đối tượng của khoa học là những sự vật (kể cả con người vật lý và sinh lý), còn đối tượng của triết lý là con người hiện sinh tự do.
– Về phương pháp: phương pháp khoa học căn cứ trên những thì ngiệm để rồi xác lập các định luật phổ quát. Trái lại phương pháp triết học phải là sự tiếp cận (apprroche: G. Marcel) theo kiểu hiện tượng luận của Hussert, vì đối tượng của nó là tự do. Tính tự do ấy biến tôi và tha nhân thành những thực tại bí nhiệm.
– Về cái nhìn: cái nhìn của khoa học gia càng ngày càng chuyên biệt hóa, ví dụ cái nhìn của bác sĩ chuyên về tim, về thẩm mỹ v.v… Còn cái nhìn của triết gia vẫn giữ ý nguyên tính toàn diện và tổng quát.
b, Triết lý đóng vai trò nào đối với khoa học?
Công việc của triết gia không đi song hành với công việc của khoa học gia, nhưng hoặc đi trước hoặc đi sau. Nó đi trước để định hướng, đi sau để lượng giá những thành quả của khoa học. Cụ thể trong những điểm sau đây:
– Trước hết nó định vị trí cho từng khoa học trong toàn bộ kiến thức nhân loại.
– Triết học cung cấp cho khoa học những nguyên tắc tối sơ trong tiến trình nghiên cứu của nó. Chẳng hạn nguyên lý nhân quả, đồng nhất, túc lý….
– Triết lý trả lời thay cho khoa học những câu hỏi vượt giới hạn của nó. Ví dụ khoa học vật lý nghiên cứu về thế giới vật chất, nhưng không biết vật chất từ đâu mà có.
Cuối cùng, triết lý nhân bản hóa tất cả những phát minh của khoa học. Nói cách khác triết gia đối chiếu thành quả của khoa học với lọi ích thực sự và toàn diện của con người nói riêng và xã hội nói chung.
Discussion about this post