Click vào đây để tải về (file Word)
TĨNH TÂM NĂM 2023
Việc sống đời tuân phục bày tỏ một nét đẹp đặc biệt: họa lại cách sinh động con người Đức Ki-tô là Đấng vừa được thánh hiến cho vinh quang của Chúa Cha, vừa được sai đến với thế gian nhằm cứu độ anh chị em mình (Vita Consecrata, số 72).
Giảng tĩnh tâm: Lm. Pet. Nguyễn Hữu Đào (Hiền Lâm)
Chủ đề: VÂNG LỜI & KỶ LUẬT
Phần I: VÂNG LỜI TRONG ĐỜI TU TRUYỀN GIÁO
BÀI IV. VÂNG LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO
Phần II: KỶ LUẬT ĐỜI TU
BÀI VI. KỶ LUẬT TRONG CỘNG ĐOÀN
BÀI VIII. GIỮ KỶ LUẬT KHI ĐI TRUYỀN GIÁO
Phần I: VÂNG LỜI TRONG ĐỜI TU TRUYỀN GIÁO
BÀI I. VÂNG LỜI HƠN CỦA LỄ
Đọc Lời Chúa: 1Sm 15,16-31
Ông Sa-mu-en nói với vua Sa-un: “Thôi! Tôi sẽ báo cho ngài biết điều Đức Chúađã phán với tôi đêm qua.” Vua Sa-un bảo: “Xin ông cứ nói.” Ông Sa-mu-en nói: “Dù ngài tự coi mình là nhỏ bé, ngài chẳng phải là đầu của các chi tộc Ít-ra-en sao? Đức Chúa đã xức dầu phong ngài làm vua cai trị Ít-ra-en. Đức Chúa đã sai ngài lên đường và phán: “Hãy đi, ngươi phải tru hiến quân tội lỗi là bọn A-ma-lếch ấy, và phải giao chiến với chúng cho đến khi tận diệt chúng. Tại sao ngài đã không nghe theo tiếng Đức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái mắt Đức Chúa?” Vua Sa-un nói với ông Sa-mu-en: “Tôi đã nghe theo tiếng Đức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Đức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa A-gác, vua A-ma-lếch, về và đã tru hiến A-ma-lếch. Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại Ghin-gan.”
Ông Sa-mu-en nói: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu.
Phản nghịch cũng có tội như bói toán, ngoan cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng. Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời của Đức Chúa, nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa.”
Vua Sa-un nói với ông Sa-mu-en: “Tôi đã phạm tội, vì đã vi phạm lệnh Đức Chúa và các lời của ông. Lý do là vì tôi đã sợ dân và nghe theo tiếng họ. Giờ đây, xin ông vui lòng tha tội cho tôi và trở lại cùng với tôi, để tôi phục xuống lạy Đức Chúa.” Ông Sa-mu-en trả lời vua Sa-un: “Tôi sẽ không trở lại cùng với ngài, vì ngài đã gạt bỏ lời Đức Chúa; Đức Chúa đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa.” Khi ông Sa-mu-en quay mặt để đi thì vua Sa-un níu vạt áo khoác của ông và áo bị giật rách. Ông Sa-mu-en nói với vua: “Hôm nay Đức Chúa đã giật vương quyền Ít-ra-en ra khỏi ngài và đã ban cho một người khác tốt hơn ngài. Ðấng là Vinh Dự của Ít-ra-en không lừa dối cũng không hối hận, vì Người đâu phải là con người để mà hối hận.” Vua nói: “Tôi đã phạm tội, nhưng giờ đây xin ông kính trọng tôi trước mặt các kỳ mục trong dân của tôi và trước mặt Ít-ra-en. Xin ông trở lại cùng với tôi để tôi phục xuống lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của ông.” Ông Sa-mu-en trở lại, theo sau vua Sa-un, và vua Sa-un đã phục xuống lạy Đức Chúa.
(Động từ ‘שמע’ (shama) của Do-thái tương đương với ‘vâng phục’ trong tiếng Việt hay ‘obey’ trong tiếng Anh. Vâng phục trong tiếng Hy-lạp là ‘ὑπακούω’/hupakouo (obey), danh từ là ‘ὑπακοή’/hupakoe (obedience) và tính từ là ‘ὑπήκοος’/hupḗkoos (obedient). ‘Vâng phục’ có nghĩa là ‘nghe’ hay ‘lắng nghe’ lời của người có thẩm quyền, người bề trên, người quan trọng trong các hình thái xã hội loài người).
Vâng phục hay vâng lời là lời khấn bắt buộc có trong tất cả các dòng tu. Đối với một số người, đây là lời khấn khó tuân giữ nhất vì nó đụng chạm đến tự do quan điểm, với việc phải hãm dẹp đi ý riêng và đôi khi phải làm điều mà mình không thích. Quả thực, lời khấn vâng phục cũng gây ra nhiều tranh cãi và cũng là một thách đố lớn lao dành cho con người ở mọi thời đại, mọi lứa tuổi, dù người đó mới chập chững bước vào đời tu hay đã tu lâu năm trong tu hội. Điều đầu tiên giúp ta có thể dễ dàng hiểu được vì sao phải vâng phục trong dòng tu là vì nếu không có vâng phục một vị bề trên hợp pháp, cuộc sống trong cộng đoàn chắc chắn sẽ có nhiều xáo trộn. Sống trong một tập thể mà ai cũng muốn làm theo ý riêng của mình thì sẽ chẳng có trật tự gì. Đó sẽ không còn là đời sống cộng đoàn nữa. Sự vâng lời một bề trên giúp quy hướng mọi người về một mối, giúp tránh mọi nguy cơ chia rẽ và giúp đảm bảo ơn gọi của mỗi người.
Bài đầu tiên về sự vâng lời, chúng ta cùng mổ xẻ đoạn sách Sa-mu-en chúng ta vừa nghe. Câu chuyện của vua Saun, đã để lại cho chúng ta một số khía cạnh của sự vâng lời: Vâng lời vì có lợi, vâng lời một phần, vâng lời vì danh dự, và vâng lời hơn của lễ.
1. Vâng lời vì được lợi.
Sa-un vâng lời Đức Chúa mang quân đi đánh A-ma-lếch, vì ông thấy ông sẽ chiếm được rất nhiều chiến lợi phẩm, nhưng sau đó ông đã phạm sai lầm là tính toán giữ lại những gì tốt nhất cho mình mà không tru hiến theo lệnh Đức Chúa.
Đây là sự vâng lời có tính toán, hiểu cả nghĩa vật chất lẫn tinh thần. Khi nhận một việc được giao, người nhận đôi khi không hẳn nhìn về cái chung và ý muốn của người truyền lệnh, nhưng vì thấy nếu mình vâng lời làm sẽ cho mình những lợi lộc riêng trong đó.
Ý của người ra lệnh truyền luôn là một sự kiểm chứng đức vâng lời, đồng thời nhắm tới lợi ích của cộng đoàn. Tuy nhiên, về phía người đón nhận, đôi khi có những toan tính cá nhân đặt lên trên lợi ích tập thể.
Về tinh thần, đôi khi tưởng chừng như là một sự mau mắn đáp trả, nhưng sâu xa là ngầm ý như một sự “nín thở qua cầu”, ngoan ngoãn khi chưa đạt được, nhưng được rồi “sẽ biết tay tao” (Dễ dạy khi còn nhà tập, khấn rồi thì biết, và linh mục rồi thì “mất dạy”).
Tu sĩ hôm nay như muốn chọn một số điều luật để vâng giữ, còn những điều khác thì tự miễn chuẩn cho mình. Cũng có những dấu hiệu “muốn đối kháng” một cách rất êm dịu, như người ta vẫn thường nói “bằng mặt mà không bằng lòng.” Một lối sống như vậy cho thấy rằng: họ coi trọng ý kiến, suy nghĩ, quan điểm, cách nhận định của mình là đúng, là quan trọng. Đó phải chăng là một thái độ rất tầm thường, không có gì là siêu nhiên cả, không mở ra cho mình một lối sống biết đón nhận, lắng nghe, một lối sống dễ dạy, dễ bảo,… hay có thể nói không nhận ra chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi những người có trách nhiệm. Đó đúng thực là một “đức tin đang chảy máu.”
Vâng lời trong đời tu là một sự hy sinh liên lỉ, bỏ mình chứ không theo lối sống đụng tí là bực bội, bất mãn, bất chấp và bất cần. Đối với tu sĩ, vâng lời là tham dự vào sự tuân phục của Đức Ki-tô đúng như Công đồng Vatican II khẳng định: “Các tu sĩ lấy đức tin tuân phục các vị bề trên, đại diện Thiên Chúa, và nhờ các Ngài hướng dẫn, họ phục vụ mọi anh em trong Đức Ki-tô” (PC 14). Vâng phục của tu sĩ không phải là hoàn toàn mất đi tự do cá nhân nhưng là biết phó thác và vâng theo thánh ý Chúa qua những vị phụ trách. Đức tuân phục ấy thay vì làm giảm bớt phẩm giá con người, thì lại làm cho con người trưởng thành bằng cách làm lớn mạnh quyền tự do làm con Thiên Chúa (TH. Chứng tá Phúc Âm, số 27).
2. Vâng lời một phần.
Sa-un và dân chọn hủy diệt những thứ ông và dân không thích (như bò bê gầy, trai gái xấu, kẻ già nua yếu bệnh, đồ dùng kém giá trị…) và lấy của tốt để dâng lễ và giữ lại cho mình xài.
Mặc dầu Sa-un đã nghe rõ ràng lệnh truyền từ Đức Chúa rằng ông phải hủy diệt tất cả dân A-ma-lếch, nhưng ông không làm theo mệnh lệnh, hoặc nói chính xác hơn, ông chỉ làm theo ở mức độ ông và dân sự thích. Vì vậy, họ chỉ hủy diệt những gì họ thích hủy diệt, còn giữ lại những gì họ không thích diệt. Tuy nhiên, đây không phải là vâng lời. Vâng lời Đức Chúa không có nghĩa là làm theo ý muốn Chúa một phần, chỉ ở chừng mực nào đó. Nhưng đó là làm theo tất cả những gì Đức Chúa ra lệnh phải làm đầy đủ và chính xác. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a nói: “Đáng nguyền rủa thay kẻ làm việc Đức Chúa cách giả dối” (Gr 48,10).
Vâng lời Đức Chúa là làm đúng làm đủ, chứ không phải làm thiếu làm thêm. Sa-un làm thiếu lệnh Đức Chúa là tru hiến A-ma-lếch, làm thêm là dâng hy lễ. Những điều đó Đức Chúa không cần. Nhiều tu sĩ lệnh truyền nhân danh đức vâng lời thì không làm, nhưng lại làm thêm những điều không hề được trao cho.
Kẻ vâng lời ban đầu vâng dạ khi nhận lệnh truyền, nhưng sau đó thì chỉ làm điều nào mình thích, còn điều cho là không hợp thì không làm. Sở dĩ ban đầu ôm lấy cả là vì sợ kẻ khác thay thế, mình mất cơ hội.
Nhiều người mắc phải vấn đề vâng lời này, vâng lời để nắm lấy một công việc, một sở làm, nhưng rồi sau đó tự thao túng làm theo sở thích của mình, rất khó chịu lắng nghe và bàn bạc, bỏ ngoài tai tất cả những lời góp ý “Sa-mu-en”, phản ứng tiêu cực, thậm chí động một chút là dọa trả việc về cho người giao “bài sai”.
Chúng ta có thể nhìn thấy chính mình trong dụ ngôn “những tá điền sát nhân” (x. Mt 21,33-43): Trước hết, hiểu về Giáo hội – trên danh nghĩa hoàn vũ hay địa phương – thì cũng đều là của Chúa Giê-su. Thế nhưng, không thiếu những đấng bậc lạm dụng chiếm làm của mình, rồi thao túng Giáo hội (cộng đoàn, giáo xứ) theo sự vụ lợi hoặc tham danh cho mình; bảo thủ và phớt lờ những tiếng nói ngôn sứ, thậm chí bịt miệng những ai dám lên tiếng chỉ ra những lạm dụng và sai trái, và cuối cùng “giết chết một Chúa Giê-su đích thực” trong Giáo hội, và chỉ còn lại là sự xuống cấp về niềm tin và luân lý.
Khi bề trên truyền nhân danh đức vâng lời, thì công việc được giao đó là của Chúa mà mình có nghĩa vụ thi hành dưới quyền của các vị phụ trách, chứ không phải là chiếm đoạt cho mình thành vua một vùng, không còn nghe ai và không ai đụng tới được. Hãy luôn tâm niệm điều này: “Không mợ thì chợ vẫn đông”. Đừng nghĩ mình là duy nhất không thể thay thế.
Về tâm hồn, mỗi người cũng được ví như một vườn nho mà Chúa đã trồng và giao cho việc tự quản lý và sinh hoa lợi cho Người. Thế nhưng, lắm khi chúng ta đã coi thường tiếng nói của lương tâm, phớt lờ những lời dạy dỗ và sửa đổi của những người có trách nhiệm, bỏ qua lề luật Chúa và Hội thánh, hững hờ với việc nghe Lời Chúa, và cuối cùng là “giết chết” Chúa Giê-su hiện diện trong tâm hồn.
3. Vâng lời vì sợ mất danh dự.
Vâng lời vì sợ mất danh dự với người ta hơn là mất liên hệ với Thiên Chúa. Sa-un tìm cách làm hài lòng con người. Ông quan tâm đến họ và ý kiến của họ hơn là Đức Chúa và ý muốn của Người. Về sau khi ông thừa nhận lỗi lầm, điều ông sợ không phải là mất đi mối liên hệ với Đức Chúa nhưng là sợ mất danh dự với dân sự. Sa-un đáp rằng: “Tôi đã phạm tội, nhưng giờ đây xin ông kính trọng tôi trước mặt các kỳ mục trong dân của tôi và trước mặt Ít-ra-en” (1Sm 15,30).
Điều này khác với vua Đa-vít, người kế vị vua Sa-un, ông cũng phạm tội tà dâm và sau đó giết người. Tuy nhiên, khi Na-than cáo trách ông (x. 2 Sm 12,1-14), điều ông lo lắng không phải là ngôi vị, nhưng là mối liên hệ của ông với Chúa (Tv 50). Đó là lý do tại sao Đa-vít tìm kiếm sự phục hồi mối tương giao với Chúa, ông được tha thứ, trong khi đó Sa-un tìm kiếm sự phục hồi ngôi vị nên đã bị từ chối.
Kiểu vâng lời này ít được để ý, nhưng lại rất thực tế. Người ta vâng phục chỉ vì sợ mình mất chỗ đứng trong một tập thể, mất tiếng nói qua công việc, và hơn tất cả là sợ mất danh dự trước dư luận vì mình đã khấn vâng lời.
Và cũng như Sa-un khi sai lỗi không tìm kiếm liên hệ với Chúa, mà cứ tìm cách bảo vệ ngôi vị của mình và lún sâu mãi trong sự không vâng phục cho đến khi bị loại bỏ; nhiều người khi cảm thấy nguy cơ đổ vỡ, thay vì phó thác thuận theo ý Chúa, thì lại tìm cách bảo vệ chỗ đứng của mình, và sai phạm nối tiếp sai phạm cho đến lúc mất tất cả.
Lại có không ít người rất tự mãn về những thành công của mình đã làm được điều này điều kia, họ tỏ ra kiêu ngạo, vênh vang và muốn thể hiện chính mình qua những thành công đó; họ làm cốt chỉ để khoe khoang và mưu tìm danh vọng cho bản thân, muốn được người khác tôn trọng, công nhận những thành công đó, nhưng khi bị chê bai, chỉ trích, hay gặp thất bại, họ dễ thất vọng và như muốn buông bỏ tất cả. Chính vì vậy mà tự kiêu là một cản trở lớn làm cho tu sĩ khó thực thi đức vâng lời một cách tốt nhất.
Việc vâng lời vì sợ mất danh dự, còn là một sự tìm kiếm vinh quang cho mình. Đôi khi làm điều này điều kia như xây dựng nhà thờ này, trung tâm nọ, việc bác ái kia… tưởng chừng như là một sự xả thân hết mình làm theo ý Chúa, nhưng ngầm ý sau đó mới là cả một sự tìm kiếm vinh quang. Ngày khánh thành, Chúa được một câu vỏn vẹn tạ ơn, nhưng kể lể công lao của cha, thầy soeur… xây dựng công trình đó thì cả mấy trang A4 và tha hồ mọi người tung hô chúc mừng trao tặng. Trao quà từ thiện thì phải Livestreams trên Youtube và Facebook để mọi người thấy và comment khen ngợi rầm rầm. Ai góp ý thì được trả lời với lý do rất ư là hữu lý rằng quay chụp để cho ân nhân đã đóng góp biết. Ủa, vậy sao không quay và chụp gửi riêng cho họ mà lại phải cho cả bàn dân thiên hạ biết. Thiết nghĩ, lúc đó Chúa Giê-su đang ngồi trước hòm tiền quan sát dâng cúng và nói: “Ta bảo thật, chúng đã được phần thưởng rồi”.
4. Vâng lời hơn của lễ.
Vâng lời Thiên Chúa là làm những gì Người truyền dạy bạn phải làm cho dù qua Lời Chúa bằng chữ viết hoặc trong trường hợp của Sa-un bằng sự mặc khải. Trong chừng mực nào đó mà chúng ta làm những điều Chúa không dạy bảo, đó là không vâng lời cho dù chúng ta làm nhân danh Chúa. Chúa không muốn chúng ta là những người làm công bận rộn làm việc riêng mình cho Chúa. Thay vào đó Người muốn chúng ta vâng lời và làm theo chính xác những gì Người truyền dặn. Sa-un và dân của ông đã làm công việc Chúa cách vô ý thức. Theo sự giải thích của Sa-un đó là họ không có ý xấu. Như ông nói: “Trong số chiến lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những con tốt nhất để làm hy lễ dâng Đức Chúa” (1Sm 15,21). Dân sự muốn dâng của lễ, nhưng họ không muốn vâng lời. Như Sa-mu-en nói:“Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu. Phản nghịch cũng có tội như bói toán, ngoan cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng. Bởi vì ngài đã gạt bỏ lời của ĐỨC CHÚA, nên Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa.”(1Sm 15,22-23).
Ngôn sứ Mi-kha viết: “Phải chăng Đức Chúa ưa thích từng ngàn dê đực, và hằng vạn suối dầu? Phải chăng tôi sẽ dâng con trai đầu lòng để chuộc lỗi cho tôi, dâng con ruột để đền tội cho chính mình? Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt, điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn: đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn.” (Mk 6,7-8)
Tất cả những gì Chúa muốn chúng ta làm đó là làm sự công bình, ưa sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Chúa. Trở nên khiêm nhường dưới cánh tay của Đấng Toàn Năng để Người có thể cất nhắc chúng ta lên trong thời điểm của Người (1 Pr 5,6). Sự không vâng lời, cho dù trong hình thức làm những điều Chúa phán dạy hay không phán dạy, là hành động tách rời khỏi Thiên Chúa. Vấn đề không phải ở chỗ chúng ta làm gì, hay mục đích là gì. Vấn đề đó là điều chúng ta làm có phát xuất từ sự vâng lời Thiên Chúa, như của lễ thiêu của Áp-ra-ham, hay sự không vâng lời, như của lễ thiêu của Sa-un mà ông đã làm.
Vấn đề không phải bạn dâng bao nhiêu của lễ lên cho Chúa, nhưng quan trọng là bạn vâng lời Người như thế nào. Của lễ đẹp lòng Chúa chỉ là những của lễ mà Chúa truyền dặn. Sự phục vụ đích thực là sự phục vụ mà Chúa trao phó. Mọi sự khác, cho dù nếu điều đó thực hiện trong danh của Chúa, vẫn là sự không vâng lời, hành động theo sự điều khiển của bản tính cũ. Như Chúa Giê-su nói: “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. Ai muốn làm theo ý của Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng dạy. Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy không có gì là bất chính” (Ga 7,16-18).
Thiên Chúa cũng muốn con người có một tấm lòng để đối xử với nhau tốt hơn:
“Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ,
Thích được các ngươi nhận biết hơn là của lễ toàn thiêu” (Hs 6,6);
“Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ,
Lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15,22).
Thiên Chúa ưa thích tấm lòng của con người hơn là của lễ. Bởi lẽ của lễ chỉ có giá trị khi chúng tượng trưng cho tấm lòng thành. Một của lễ thiếu tấm lòng sẽ trở nên vô nghĩa, thậm chí làm cho Chúa ghê tởm.
“Bò của ngươi, Ta nào có thiết
Chiên của ngươi, chẳng lẽ Ta ham!” (Tv 49,9).
Chúa là Đấng quyền năng. Người thấu hiếu tâm tình và thái độ của người dâng lễ. Của lễ dâng không xuất phát từ tấm lòng sẽ trở thành một hình thức “hối lộ” thần linh, giống như người ta muốn cầu cạnh nhờ vả ai giúp cho một việc gì.
Có người cho rằng, tôi làm điều này điều kia là do ý Chúa. Vậy liệu có thật là bạn được ơn mạc khải riêng không? Hay là có một sự tác động không lành mạnh nào đó đến từ trong ý riêng, tư lợi, hay sự xúi giục của một ai đó? Và nếu có một sự mạc khải đi nữa, thì Thiên Chúa không bao giờ mặc khải một điều ngược lại với một thực thể mà Chúa đã lập ra đã truyền lệnh cho bạn.
Cũng cần lưu ý, câu nói “Ý bề trên là Ý Chúa” được hiểu trong bối cảnh là người có phận vụ phụ trách truyền lệnh đã cầu nguyện, suy xét và họp bàn, chứ không phải ý của sự độc tài, cục bộ, địa phương.
Còn việc vâng lời trong đối thoại (theo cách nói ngày nay), nghĩa là chắc chắn có những sự cần thay đổi do hoàn cảnh thực tế, hoặc những phương pháp mới tốt hơn trong công việc, hay có nhân sự thích hợp hơn… thì người vâng lời cũng không tự ý quyết định mà cần một sự đối thoại cởi mở và bàn bạc. Nhưng nếu đã trình bày mà bề trên và các vị phụ trách vẫn muốn duy trì, thì hãy coi đó là “vòng hoa của đức vâng phục”. Sự vui vẻ tiếp tục làm này, chính là “vâng lời hơn của lễ”, là bạn đang lên núi “Chúa sẽ liệu” mà chúng ta sẽ bàn trong bài sau:
BÀI II. VÂNG LỜI NHƯ CỦA LỄ
Đọc Lời Chúa: St 22,1-18
Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông: “Áp-ra-ham!” Ông thưa: “Dạ, con đây!” Người phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa. Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh.”
Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham: “Cha!” Ông Áp-ra-ham đáp: “Cha đây con!” Cậu nói: “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu?” Ông Áp-ra-ham đáp: “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ.” Rồi cả hai cùng đi.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!” Ông thưa: “Dạ, con đây!” Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ, Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là “Đức Chúa sẽ liệu.” Bởi đó, bây giờ có câu: “Trên núi Đức Chúa sẽ liệu.”
Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữavà nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.”
Trước khi cùng lên núi “Chúa sẽ liệu” với Áp-ra-ham, chúng ta lấy một ví dụ về sự vâng lời:
Khi chưa phạm tội, con đường nối liền từ Thiên Chúa đến với A-đam như một con đường bằng phẳng. Chiều chiều trong cơn gió nhẹ hiu hiu thổi, Chúa đến trò chuyện với con người trong vườn địa đàng (x. St 3,8a). Tội nguyên tổ giống như quả bom hạt nhân làm bằng chất nổ kiêu ngạo bất tuân lệnh rơi xuống cắt đứt con đường nối liền từ Thiên Chúa đến con người, từ đó tạo nên một hố sâu ngăn cách con người không còn đến được với Thiên Chúa nữa. Ơn Cứu Độ tức là Chúa Giê-su đến bắc qua cái hố sâu cây thánh giá làm bằng gỗ khiêm nhường vâng phục. Từ nay, bất cứ ai muốn đến được với Nước Thiên Chúa thì buộc phải đi qua “cây cầu vâng phục này” (chúng ta sẽ chú giải thêm về ví dụ này trong những bài kế tiếp). Phải qua thập giá mới được vào vinh quang là vậy. Và con đường thập giá, chính là con đường khiêm nhường vâng phục mà Chúa Giê-su đã đi.
Trở lại với câu chuyện của Áp-ra-ham mà chúng ta vừa nghe mở đầu trong trích đoạn sách Sáng Thế: Tổ phụ Áp-ra-ham vâng lời Chúa hiến tế đứa con duy nhất mà ông khao khát. Nhưng thực ra, chính tổ phụ Áp-ra-ham đã trở thành của lễ và sát tế chính mình cho Chúa rồi. Thật vậy, ông đã quặn đau khi nghe lệnh Chúa truyền phải giết con, xót xa khi chất củi lên vai con vác đi sát tế, tan nát khi I-sa-ác hỏi: “Cha ơi ! Củi đây, nhưng của lễ đâu?”. Áp-ra-ham đã đi trọn con đường hiến tế và trở thành của lễ vâng phục trọn hảo ngay khi ông nói: “Đức Chúa sẽ liệu”. Một lời nói thốt ra mang tròn đầy đức tin, đức cậy và đức mến.
Như Áp-ra-ham, tu sĩ cần đón nhận sự vâng lời với tinh thần của đức tin và đức mến. Đức tin trong sự vâng phục thể hiện ở chỗ tin rằng vị bề trên hợp pháp là đại diện của Chúa, dù rằng người ấy có nhiều khiếm khuyết, bất toàn, thậm chí là thua kém mình mọi đàng. Tu sĩ phải tỏ lòng kính trọng bề trên, yêu mến bề trên như yêu mến Chúa vì chỉ khi yêu mến, họ mới có thể vâng phục được.
1. Vâng lời trong đức tin (Thánh ý và thánh chỉ).
Đặt trong hoàn cảnh của tổ phụ Áp-ra-ham, trước đó ông đã già mới có được đứa con duy nhất để thừa kế giòng giống và gia nghiệp. Bây giờ vì vâng lời Đức Chúa phải giết đi đứa con duy nhất của mình, có thể nói, phải có một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa thì Áp-ra-ham mới dám làm. Đỉnh cao của niềm tin là ông đã thốt lên được lời “Chúa sẽ liệu”, nhờ đó ông xứng đáng với danh hiệu “cha của những kẻ tin”, là người công chính và trở nên phúc lành của mọi dân tộc.
Tin là khởi đầu cho mọi hành động, không ai dấn thân vào làm điều gì mà không có niềm tin. Phải tin vào khả năng của mình, tin vào tính thánh thiêng và pháp lý của lệnh truyền, tin vào công việc hay sứ điệp mà mình lãnh nhận và thi hành. Tin cũng chính là chìa khóa đi đến mục đích và sự thành công.
Sống trong một tổ chức, để vâng lời thi hành một mệnh lệnh, điều đầu tiên phải có là tin vào tính pháp lý của người trao công việc. Như khi nhận thánh chỉ, công văn, lệnh truyền… người ta thi hành là vì tính pháp lý và sức nặng của nó. Tuy nhiên, tính pháp lý thường chỉ được tuân phục chỉ vì buộc phải vâng lời, hoặc vì được lợi ích đi theo việc vâng lời đó. Còn về tôn giáo, cách riêng trong đời tu, ưu tiên đầu tiên là tin vào tính thánh thiêng của lệnh truyền, trước khi xét đến tính pháp lý của cá nhân hay cộng đoàn trao phó công việc cho mình. Nhờ tin vào sự thánh thiêng Lời Khấn Vâng Lời, cũng đồng nghĩa với tin vào bề trên là đại diện Chúa, cũng như công việc là của Chúa trao phó, nên sự đón nhận dễ là sự mau mắn vui vẻ và nhiệt huyết dấn thân.
Câu chuyện của Áp-ra-ham, thần tượng và đối tượng ông nhắm tới là Đức Chúa và phần thưởng ông tin là sẽ được Đức Chúa lo liệu, nên ông thi hành lệnh Chúa cách mau mắn mà không so đo tính toán. Cũng vậy, tu sĩ khi nhận một lệnh truyền vâng lời, đối tượng của họ là Chúa, và họ mau mắn thi hành cho Chúa và vì Chúa, hăng say làm công việc của Chúa.
Ở ngoài đời, nhất là các “đồng chí cờ sờ”, họ không có một thần tượng lý tưởng (ngay cả thần tượng ép họ noi gương là cụ Hồ, họ biết sự thật không như thế, nên hoàn toàn sụp đổ). Vì thế, khi được nhận một công việc, họ lo vơ vét cho mình. Họ vô thần không tin Chúa, nên chỉ lo cái đời tạm, sống được bao nhiêu lo hưởng thụ thôi, nên tham nhũng tràn lan. Còn người có niềm tin vào Chúa ngự trên cao thấu tỏ mọi công việc họ làm, nên họ làm cách trung tín và khôn ngoan, để không chỉ vì kế sinh nhai, mà còn hướng đến cuộc sống mai hậu.
Khi bạn có tin vào một tu hội, dòng tu hay hiệp hội nào đó là do Chúa, thì bạn mới xin gia nhập. Đồng nghĩa với việc bạn nhận vâng lời bề trên của cộng đoàn bạn để làm việc gì đó, thì bạn tin tưởng lệnh truyền là do ý Chúa, nên bạn cứ chu toàn theo cách bề trên và cộng đoàn giao phó. Hãy tin vào bề trên và những vị phụ trách đã suy xét cẩn thận cùng với ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trước khi giao “bài sai” cho bạn, nên cứ thi hành, vì thành bại là việc của Chúa. Không tin thì không nhận, mà nhận rồi thì phải làm đúng ý đúng việc.
Ai cũng biết rằng sự khó khăn của vâng phục thường nằm ở vấn đề khám phá ra ý muốn Thiên Chúa qua một đại diện là con người. Nhưng nếu xuất hiện ở đây mầu nhiệm Thập giá, thì ta đừng nhắm mắt làm ngơ. Phải luôn nhớ rằng vâng phục tu trì không thuần tuý chỉ là sự tùng phục của con người đối với một quyền bính nhân loại. Ai vâng phục là tùng phục Thiên Chúa, thánh ý của Người được diễn tả trong ý muốn của bề trên. Đây là vấn đề đức tin. Các tu sĩ phải tin vào Thiên Chúa, Người thông truyền ý muốn của Người qua trung gian các bề trên. Ngay cả trong những trường hợp tỏ rõ những thiếu sót của các bề trên, thì ý muốn của các ngài, nếu không trái ngược với luật Chúa hay luật dòng, thì vẫn diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Ngay cả khi nhìn theo phán đoán nhân loại, quyết định đó xem ra thiếu khôn ngoan, nhưng phán đoán của đức tin sẽ chấp nhận mầu nhiệm Thánh Ý: “mầu nhiệm thập giá” (mysterium crucis).
Những câu chuyện về Áp-ra-ham, cách riêng về câu chuyện hiến tế I-sa-ác trên núi Mo-ri-gia cho thấy niềm tin sắt đá của ông. Áp-ra-ham thật mạo hiểm, liều lĩnh và ái ngại cho nhiều người. Ông có một sự vững tâm trong chính bản thân, vượt trên mọi bảo đảm của người đời: đó là niềm xác tín, là ánh sáng đức tin dẫn lối cho ông. Khi vâng nghe và đáp lại lời mời gọi đầu tiên của Chúa để vào sống ơn gọi thánh hiến, nhiều người cũng dễ dàng từ bỏ rất nhiều. Nhưng dần dần theo năm tháng của đời tu, họ như đang lấy lại mọi thứ, dù đã khấn vâng phục, họ vẫn muốn dành cho mình nhiều quyền: quyền muốn có những tiện nghi bảo đảm, những điều kiện minh bạch và những mối lợi rõ ràng khi phải vâng phục; quyền muốn biết, muốn nắm vững và muốn tự xoay xở, tự sắp xếp cuộc sống và công việc theo ý của mình… Chưa sống tinh thần đức tin trong khi vâng phục, để can đảm buông mình cho sự hướng dẫn của Chúa qua Hiến Pháp, qua các vị trung gian và qua mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, thì chưa sẵng sàng lên đường, sẵn sàng rời bỏ và ra đi mỗi khi nhận bài sai, mỗi khi được đề nghị thay đổi công tác, và thậm chí thay đổi lối sống, cách suy nghĩ, nhận định không thích hợp.
2. Vâng lời vì yêu mến (x. Hiến Pháp SSP, số 28).
Tổ phụ Áp-ra-ham dành cho Đức Chúa một sự ưu tiên số một trong trái tim ông. Thậm chí là tình cảm ruột thịt, ngay cả đứa con duy nhất ông sẵn sàng hi sinh hiến tế để vâng lời Đức Chúa. Đây là điều mà Chúa Giê-su nói trong Tân Ước, cách Áp-ra-ham hàng mấy ngàn năm: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”(Mt 10,37). Câu này cần hiểu đúng, Chúa không dạy sự bất hiếu là phải bỏ cha mẹ anh chị em, mà là khi phải lựa chọn, thì Chúa phải là ưu tiên hàng đầu, chứ không phải các liên hệ tình cảm khác hơn dành cho Chúa.
Khi nhận một lệnh truyền, nếu nhận với cả lòng yêu mến: Yêu mến Chúa, yêu mến bề trên và yêu mến cộng đoàn, thì công việc tự trở nên nhẹ nhàng, cũng công việc đó, nhưng trở nên nhẹ nhàng nhờ tâm linh, tâm lý và động lực dấn thân. Ngược lại, nếu vì bất đắc dĩ mà phải vâng lời, hoặc chỉ vì sợ… thì trở nên nặng nề, làm cho có làm, làm không đến nơi đến chốn, lúc có mặt mọi người thì làm ra vẻ siêng năng, nhưng vắng người thì bỏ bê hoặc làm sơ sài…
Cũng giống như trong Bí tích Giải tội, việc ăn năn tội có hai cách: Cách trọn và cách không trọn. Ăn năn tội cách trọn là thống hối và quyết tâm chừa bỏ vì lòng yêu mến Chúa, còn cách không trọn là thống hối ăn năn vì sợ Chúa phạt. Một đứa con vâng lời cha vì yêu mến cha mình và sợ cha mình buồn hoặc vì danh tiếng của cha và gia đình, thì ở bất cứ nơi đâu đứa con cũng ngoan và sống tốt; còn đứa trẻ vâng lời cha mình vì sợ cha đánh phạt thì lúc không có mặt cha, đứa trẻ sẽ hư đốn.
Có làm gì lớn đi nữa, có hi sinh bao nhiêu đi nữa, có dấn thân truyền giáo đi nữa… mà không vì lòng yêu mến thì vứt. Như thánh Phao-lô nói trong thư thứ nhất Cô-rin-thô về bài ca đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,1-7).
Chúng ta đọc thêm từ sách Gương Chúa Giê-su (tập I, mục 9):
Biết vâng lời, có một bề trên để tùy phục và không phải làm chủ việc mình là đại phúc đấy.
Vâng lời thì chắc chắn hơn là điều khiển.
Nhiều người vâng lời vì bất đắc dĩ hơn là vì yêu mến: những người ấy khổ tâm và hay càm ràm ! Bao lâu họ chưa biết thực tâm tùng phục vì lòng mến Chúa, lòng trí họ sẽ không được thong dong thực.
Dầu đi đâu, ở đâu, con cũng sẽ không được yên trí, bao lâu con chưa biết khiêm nhường phục tùng một đấng bề trên.
Nhiều người lầm hết chỗ nói vì họ tưởng ở nơi này, đi chỗ nọ họ sẽ được dễ chịu hơn.
Tự nhiên ai cũng thích làm theo ý riêng, ai cũng thịnh tình với người hợp ý mình hơn.
Nhưng nếu ta muốn Chúa ở với ta, đôi khi ta cũng cần phải bỏ ý riêng để giữ an bình.
Làm gì có ai thông thạo, hiểu thấu được tất cả sự vật. Vậy con đừng quá yên trí rằng mình sáng suốt, một hãy vui nhận ý kiến người khác.
Con có ý kiến hay ? Vì lòng mến Chúa, con cứ bỏ nó đi để theo ý người khác, như thế trong đường thiêng liêng, con sẽ tiến được rất xa.
Ta thường nghe nói : Chịu nghe và theo lời bàn của người khác thì chắc chắn hơn.
Cũng có trường hợp ý kiến đôi bên cùng phải cả, nhưng nếu cứ cố chấp không chấp nhận ý kiến người khác, khi lý trí hay hoàn cảnh bắt buộc : đó là một triệu chứng kiêu hãnh và điên gàn.
Phúc lớn cho người biết tùng phục một Chúa trong bản thân các đấng bề trên thay mặt Chúa. Và người biết kiên nhẫn thực hành đức vâng lời, có công lớn biết bao ! Đó là một hy sinh liên lỉ và kính ái hoàn hảo nhất.
Chính đức vâng lời là giá trị, là vinh dự, là công phúc của đời sống Công giáo, nhất là bậc tu trì, vì nó làm cho Chúa trở nên Thầy tuyệt đối và sở chủ lòng ta.
Nhưng cho được thế, phải để tâm trí và hành động cộng tác vào việc thực hiện đức vâng lời; lý trí công nhận tâm hồn yêu mến, làm cho nhanh nhẹn, quảng đại và bền bỉ.
3. Vâng lời vì niềm hi vọng.
Có thể nói, rất nhiều lần tổ phụ Áp-ra-ham ở trong hoàn cảnh éo le nhất, gần như là tuyệt vọng với sức chịu đựng của một người bình thường. Bao nhiêu lần đang sống sung túc yên ổn thì Chúa lại gọi bỏ xứ đi đến một nơi phải làm lại từ đầu; sự thất vọng lớn nhất khi ông đã quá già và vợ ông hết tuổi sinh nở mà ông bà vẫn chưa có con, và đặc biệt biến cố dâng đứa con duy nhất để sát tế – nguy cơ làm ông tuyệt tự. Nhưng trong mọi bến cố, Áp-ra-ham vẫn một mực đặt niềm hi vọng nơi Đức Chúa. Niềm cậy trông vững vàng nơi Đức Chúa đã giúp Áp-ra-ham đạt được gia nghiệp Đức Chúa hứa ban.
Chính niềm hi vọng là động lực và mục đích cho việc mình làm. Văn sĩ người Mỹ Oliver Wendell Holmes đã phát biểu rằng: “Thứ quan trọng nhất trên thế giới không phải là ta đang đứng ở đâu, mà là ta đang hướng về đâu”. Câu nói này muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những mục tiêu và khát vọng trong tâm trí của con người. Khi con người đã xác định một mục tiêu quan trọng hay ấp ủ một khát vọng lớn lao nào đó cho mình rồi, thì họ thường tập trung tất cả mọi nỗ lực và mọi điều kiện mà họ có để đạt cho kỳ được mục tiêu đó. Như vậy, những mục tiêu trong cuộc đời con người quyết định cả thái độ và lối sống của chính con người đó…
Khi người ta đánh mất niềm hi vọng, thì những công việc được giao cho chỉ làm theo chiếu lệ, thậm chí đến đâu hay đến đó. Bởi vì trong suy nghĩ làm có được gì đâu, tương lai mù mịt, bao người cùng lớp ở nơi khác đã thành đạt, còn mình thì đang bế tắc. Đó chính là việc chọn sai mục đích từ ban đầu và chọn sai đối tượng để dấn thân. Chẳng hạn, thay vì chọn đời sống tu để nên thánh thì chọn đời tu để được làm cha này sơ nọ, thay vì chọn Chúa làm đối tượng thì chọn những mục đích thăng tiến khác, hoặc để được vinh thân phì gia.
4. Vâng lời như của lễ.
Áp-ra-ham làm theo y như lời Đức Chúa truyền. Dĩ nhiên đây không phải là điều hài lòng nhất trong cuộc đời ông. Ông, cũng như bao người khác trong Thánh Kinh, không phải là người máy có thể làm theo ý muốn Chúa một cách máy móc. Thật sự, họ cũng giống như chúng ta, có ý chí tự do bởi ý muốn mình chọn lựa đầu phục chính mình cho Chúa. Sự vâng lời của họ không theo kiểu người máy nhưng từ tấm lòng. Đây là sự vâng lời duy nhất mà Lời Chúa muốn dạy dỗ. Thiên Chúa không muốn những người máy, người tài có thể làm ngay mọi thứ Người phán bảo, mà không suy nghĩ. Thay vào đó, Chúa muốn dân Người là những người yêu mến Chúa với hết cả tấm lòng, linh hồn, tâm trí và sức lực (x. Mc 12,30). Người muốn những con người có ý chí tự do, có thể quyết định từ tấm lòng tuân phục. Áp-ra-ham làm theo Lời Chúa dù cho thực tế dường như phải mất chính con mình. Sau đó, khi ông đã đến mức nguy hiểm, thì Đức Chúa can thiệp vào: “Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”(St 22,16-18).
Mục đích của sự thử thách này đó là để chứng minh Áp-ra-ham có vâng lời Đức Chúa hay không, thậm chí ngay cả phải dâng chính điều phúc hạnh mình có làm của lễ toàn thiêu. Cả Sa-un và Áp-ra-ham đều được Đức Chúa ban phúc. Sa-un được ban cho làm vua đầu tiên của Ít-ra-en. Áp-ra-ham có được lời hứa là nguồn phúc cho mọi dân tộc. Tuy nhiên, có một sự khác biệt lớn giữa họ là Sa-un sau khi nhận lãnh ơn phúc thì chống cự. Điều này dẫn đến sự không vâng lời và sa ngã. Còn Áp-ra-ham, sau khi bị Đấng ban phúc thử thách, đã được lại con mình cùng lời hứa ban phúc cho mình và cả dòng dõi.
Trong tất cả mọi sự, trước khi của lễ toàn thiêu I-sa-ác sắp được dâng, thì chính sự vâng lời đã biến Áp-ra-ham thành của lễ, Chính Áp-ra-ham đã sát tế chính mình, sát tế chính trái tim mình với bao nhiêu lần quặn đau rướm máu, sát tế chính cái “tôi” của ông, để tất cả cho ý Đức Chúa nên trọn trên sự tự do của ông.
Đức cố Hồng Y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Nếu khiết tịnh là chết cho nhục dục, thì vâng phục là chết cho ý riêng” (ĐHV 392). Muốn được như thế, là tu sĩ, chúng ta phải chịu chôn vùi cái tôi của mình như hạt lúa bị vùi lấp dưới lòng đất mới mong đơm bông kết trái (x. Ga 12,24). Vì thế, nếu không chết đi cái tôi của mình mỗi ngày thì tu sĩ khó có thể sống đúng căn tính của mình trong đời tu.
Trong ba lời khấn, thì lời khấn vâng phục có thể nói là khó nhất, vì nó sát tế cả lý trí, ý chí và tự do của con người. Và cũng chỉ có vâng phục mới bao gồm tất cả các lời khấn khác, bởi tu sĩ giữ tất cả các lời khấn chỉ vì vâng lời một thực thể trần gian đại diện Thiên Chúa. Thề hứa vâng lời Thiên Chúa là dâng trọn con người cho Chúa, với mục đích duy nhất hướng tới cứu độ các linh hồn. Đó là chủ đề chúng ta sẽ suy tư trong bài kế tiếp.
BÀI III. VÂNG LỜI ĐỂ CỨU ĐỘ
Đọc Lời Chúa: Pl 2,6-17
Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”.
Ấy vậy, anh em thân mến, anh em là những người luôn luôn vâng phục không những khi tôi có mặt, mà nhất là bây giờ, khi tôi vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người. Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Đức Ki-tô quang lâm, vì tôi đã không chạy uổng công và đã không lao nhọc vô ích. Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em. Anh em cũng vậy, anh em hãy vui lên và cùng chia sẻ niềm vui với tôi.
Có thể nói, vâng phục chính là nhân đức của các nhân đức trong đời sống con người. Các nhân đức khác, chẳng hạn như khiết tịnh hay nghèo khó không thể thực hiện được nếu thiếu nhân đức vâng phục. Nhân đức này thường được diễn tả qua việc lắng nghe và thực thi ý định của những người có thẩm quyền với lòng thâm tín rằng, ý của người có thẩm quyền diễn tả thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn, sự vâng phục của một tu sĩ đối với bề trên của mình không theo nghĩa ‘cá nhân với cá nhân’, nhưng theo nghĩa ‘cá nhân với thẩm quyền hợp pháp’ của Giáo Hội nhằm mục đích xây dựng trật tự, hòa hợp và phát triển của cộng đoàn. Theo Công Đồng Vatican II: “Đức vâng lời trong đời tu trì chẳng những đã không giảm bớt phẩm giá, nhưng còn giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa” (Perfectae Caritatis 14) hay “Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm hạ của Chúa Ki-tô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Ðấng Cứu Thế và tỏ lộ rõ ràng hơn sự tự hiến của Người. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: Hơn cả mức đòi buộc của giới luật, họ tự nguyện tùng phục một con người, tùng phục vì Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành, hầu nên giống Chúa Ki-tô vâng lời cách hoàn toàn hơn” (Lumen Gentium 42). Như vậy, người vâng phục là người thâm tín rằng mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa khi biết phục tùng những người được Thiên Chúa chọn gọi để đồng hành và hướng dẫn mình. Vì thế, trong đời sống thánh hiến, nhân đức vâng phục được xem như ‘nhân đức cả’, bao trùm hai nhân đức còn lại là nghèo khó và khiết tịnh.
Ở đời, khi chọn một công việc để làm là lo cho sự nghiệp của mình và của gia đình mình; chọn một chuyên môn, tổ chức hay ngành nghề là để thăng tiến khẳng định chỗ đứng bản thân và tích trữ của cải vật chất để sống giữa xã hội trần thế; chọn lập gia đình là để duy trì nòi giống và lo cho tương lai mình và con cái… Còn người dâng mình cho Chúa, bước theo một ơn gọi trong những đặc sủng khác nhau của đời thánh hiến, thì chỉ có một mục đích duy nhất là “nên thánh” và “cứu rỗi các linh hồn”. Chính vì vậy, một trong những ý nghĩa quan trọng của sự vâng lời chính là hướng đến cứu độ.
Để có thể vâng lời, cần đến sự khiêm tốn, lời cầu nguyện và khao khát nến giống Chúa Giê-su trong sự vâng theo Thánh Ý Chúa Cha.
1. Vâng lời nhờ khiêm tốn.
Nhắc lại ví dụ chúng ta từng nói với nhau: Quả bom bằng chất nổ kiêu ngạo bất tuân đã cắt đứt con đường nối con người với Thiên Chúa, thì cây cầu thập giá làm bằng gỗ khiêm tốn vâng phục đã nối liền Thiên Chúa với con người. Con đường duy nhất, con đường cứu độ, con đường được trải bằng vật liệu khiêm tốn.
Thông thường, theo chân nguyên tổ A-đam E-và, con người hay quy hướng về mình, quan tâm đến những gì phát xuất từ bản thân hầu thỏa mãn ‘cái tôi’ chứ không phải vâng phục. Người vâng phục là người bị động, người đón nhận, người lĩnh hội, trong khi đó, người có thẩm quyền là người chủ động, người ra lệnh, người thẩm định. Do đó, nhân đức vâng phục khó thực thi hơn các nhân đức khác bởi vì người thực thi nhân đức này phải từ bỏ ý riêng của mình để lắng nghe, tin tưởng và làm theo ý của người khác. Trong một số trường hợp, người vâng phục nhận thức được những sai sót nhất định của người có thẩm quyền, nhưng vì ‘đức vâng phục’ nên vui lòng chấp nhận. Dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, vâng phục là hiến tế rất cao quý. Chúng ta có thể nói rằng người vâng phục Thiên Chúa cách trọn hảo cũng là người tử đạo theo nghĩa rộng với tên gọi là ‘tử đạo vâng phục’. Các vị tử đạo trong lịch sử Giáo Hội có điểm chung là vâng phục Thiên Chúa theo gương Đức Giê-su, thà chịu chết hơn là làm những điều ngược lại với giáo huấn của Người.
Có những người cho rằng vâng phục là thù địch của tự do. Trong thực tế, vâng phục đích thực cũng là tự do đích thực và ngược lại. Vâng phục làm cho tự do đúng hướng và tự do làm cho vâng phục được viên mãn. Điều này có nghĩa là con người không mất tự do của mình khi vâng phục Thiên Chúa. Con người vâng phục Thiên Chúa không giống máy móc làm việc theo chỉ thị của người điều khiển. Trái lại, khi con người vâng phục Thiên Chúa cũng là khi con người diễn tả sự tự do của mình cách đúng đắn và đầy đủ nhất. Như vậy, ở đây không có sự xung khắc giữa tự do và vâng phục đích thực trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Xung khắc nếu có là về phía con người khi lạm dụng tự do của mình, chiều theo cạm bẫy của thế giới bóng đêm, thế giới sự dữ. Con người chỉ có thể trưởng thành thực sự khi vâng phục thánh ý Thiên Chúa và làm cho thánh ý Người được thẩm thấu và lan rộng trong mọi chiều kích của cuộc sống mình. Người ta có thể ghép tự do và vâng phục với nhau và khẳng định rằng tự do đích thực là ‘tự do vâng phục’. Điều này có nghĩa rằng người vâng phục hiểu được giá trị của những gì mình tuân giữ bởi vì những giá trị này giúp mình ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,2-6). Đỉnh điểm của Ki-tô học về Kénosis mà thánh Phao-lô chú giải trong bản văn trích dẫn trên giống như một vòng Parabol: Từ nơi cao nhất đã tự hạ xuống đáy sâu nhất tận cùng là chết, và từ đó đi lên đỉnh điểm của sự vinh thắng. Sự khiêm tốn vâng phục đưa Thiên Chúa xuống tận cùng của vực sâu nhân loại, để nâng con người lên cõi trời cao thẳm.
Về sự khiêm tốn, chúng ta học hỏi nơi gương mẹ Ma-ri-a “nữ tỳ khiêm tốn”. Thánh Bernard nói: “Mẹ Ma-ri-a đã làm hài lòng Thiên Chúa bởi đức trinh khiết của Mẹ, nhưng bởi sự khiêm nhường Mẹ đã thụ thai Người”. Sự khiêm tốn của Đức Ma-ri-a đã kéo Ngôi Lời Thiên Chúa từ bên hữu của Chúa Cha xuống với vực sâu hư vô của nhân loại mà cứu vớt nhân loại. Có thể nói, dù vô tội, nhưng Đức Ma-ri-a là người khiêm tốn nhất trong các thụ tạo của Thiên Chúa. Lời “xin vâng” không chỉ nói lên sự khiêm nhường và vâng phục cách đơn thuần, nhưng còn hơn thế nữa, mẹ Ma-ri-a xác tín và hoàn toàn đồng ý với chương trình của Thiên Chúa. Lời “xin vâng” chất chứa hoàn toàn với tất cả ý thức và tự do, Người được thiên sứ Gáp-ri-en giải thích ý nghĩa công trình của Thiên Chúa muốn được thực hiện nơi con người của Mẹ. Thật vậy, ý định của Thiên Chúa luôn được thi hành và chương trình của Thiên Chúa luôn được thực hiện, nhưng không phải bằng cách cưỡng bách hay ép buộc. Khi chương trình Thiên Chúa liên can đến con người mà Thiên Chúa trang bị cho được tự do, thì có thể nói, chương trình ấy phần nào lệ thuộc vào sự cộng tác của con người (như thánh Augustino từng nói). Nếu Thiên Chúa sử dụng con người như những “con tốt” trên bàn cờ hay như những vật vô tri trong vũ trụ, thì mọi sự sẽ diễn ra trong trật tự và ổn định, nhưng Thiên Chúa đã không muốn thế, vì như vậy sẽ tước đi sự tự do -điều quí giá nhất trong tình yêu- con người, làm cho sự đáp trả mất đi ý nghĩa và giá trị của nó. Cũng thế, Đức Ma-ri-a, với cả “nhân vị” của mình, Mẹ đã thưa tiếng “xin vâng” với sự cộng tác cao nhất, trong sự tự do và trách nhiệm, cùng với một tình yêu không mức độ.
Trong Giáo hội, hầu như mọi cuộc ly giáo, lạc giáo và bội giáo đều xuất phát từ việc thiếu khiêm tốn – dĩ nhiên cũng kể đến ít nhiều bởi cơ cấu và quyền bính khắt khe từ Giáo hội – Tuy nhiên, vì thiếu khiêm tốn để vâng lời, mà bắt đầu từ những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ đã tìm lối đi riêng tách lìa khỏi Giáo hội, cũng như không ít tín hữu đã bỏ đạo chỉ vì đụng chạm và bất phục với quyền bính Giáo hội.
Thế nên, để tu sĩ sống khiêm nhường, thiết nghĩ: trước hết phải tìm lại động cơ siêu nhiên của đời sống thánh hiến trong tương quan với Thiên Chúa cùng với những khao khát ước muốn thuở ban đầu; sau nữa, chính bản thân tu sĩ cần phải phát huy những phẩm tính nơi mình để sống vâng phục cách triệt để nhất. Bởi lẽ, vâng phục là thái độ sẵn sàng, không trì hoãn hay rút lui, cũng không làm cẩu thả hay chậm chạp nhưng trong tinh thần tự do, tình nguyện, tự phát, không sợ hãi hay mặc cảm tự ti, có tính năng động tham gia tích cực vào đời sống và sứ vụ của cộng đoàn, biết dùng những năng lực, năng khiếu và ơn Chúa ban để thi hành các giới lệnh và chu toàn những phận vụ được ủy thác cho mình. Đồng thời phải có tinh thần trách nhiệm với nhiệm vụ được giao phó, cuối cùng phải biết đối thoại trong tinh thần yêu mến, tôn trọng nhân vị. Như vậy qua lời khấn vâng lời tu sĩ tập cho mình một lối sống từ bỏ ý muốn, tự do để tìm kiếm từ điều “hợp ý riêng” đến điều “hợp ý Chúa. Đó cũng chính là cầu nối để tu sĩ tiếp nối sứ mạng của Đức Ki-tô nơi trần gian hầu trở nên dấu chỉ cho nước Chúa hiện diện. Chính vì thế, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã quả quyết: “Mọi công việc của tu sĩ chỉ có giá trị cứu rỗi khi được làm trong đức vâng phục” (Tông huấn Hồng Ân Cứu Chuộc, số 13).
Và trên hết, không có sự khiêm tốn thì không thể có sự vâng lời đúng nghĩa. Bởi thế, tu sĩ phải có sự khiêm tốn mới có thể mau mắn và vui vẻ thi hành lệnh truyền của Chúa ban qua tay bề trên và những vị phụ trách đại diện Chúa. Khiêm tốn là học nơi Chúa. Chúa Giê-su mời môn đệ “Hãy học cùng Ta” không phải là các phép lạ, hay những chuyện phi thường tạo dựng thế giới, mà là học “hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29).
2. Vâng lời trong cầu nguyện.
Cầu nguyện cần thiết cho việc vâng lời khi lãnh sứ vụ, nên trong Giáo hội, bắt đầu làm một việc gì cũng đều có cầu nguyện. Khi nhận bài sai, thì dù giáo phận hay tu hội, đều có một kỳ tĩnh tâm và cầu nguyện trước đó.
Với sự yếu đuối của con người và với những trào lưu hiện sinh của nhân loại ngày nay, chúng ta rất khó có thể vâng phục, nhất là sự vâng phục của đức tin! Nhiều khi chúng ta biện hộ cho việc bất tuân của mình bằng những chuyện như: vâng phục là mất tự do; vâng phục làm cho con người bị lệ thuộc. Hiểu theo nghĩa tâm lý hay triết học thì thật đúng như vậy. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa đức tin dưới ánh sáng Lời Chúa thì không phải vậy, bởi vì: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên “nô lệ tội lỗi” (GLHTCG, số 1733).
Thực tế cho thấy, những ai trung thành với Chúa, người đó đạt tới đích trong sự viên mãn. Những ai biết gắn bó cuộc đời của mình với Thiên Chúa trong sự vâng phục, cuộc sống của người ấy vui tươi bình an và hạnh phúc. Khi vâng lời mà làm theo ý Chúa, chúng ta muốn điều Thiên Chúa muốn, và như vậy, chúng ta thực hiện ơn gọi nguyên thủy của mình, là trở nên “hình ảnh và giống Thiên Chúa”. Chúng ta ở trong sự thật, trong ánh sáng, và do đó trong bình an.
Con đường tự ý vâng phục Thiên Chúa không có gì là bí nhiệm và khác thường cả. Ai cũng có thể đi vào được. Nó hệ tại ở chỗ “trình sự việc lên Thiên Chúa”. Đây là câu nói của Gít-rô khuyên con rể là Mô-sê (x. Xh 18,19). Tôi có thể một mình quyết định công việc, và sau khi quyết định, tôi cầu xin Chúa giúp cho công việc của tôi được xuôi chạy. Đấy là một cách. Nhưng nếu tôi yêu mến sự vâng phục Thiên Chúa, tôi sẽ làm ngược lại: trước tiên là cầu nguyện với Chúa để biết xem ý Chúa có muốn tôi làm công việc này hay không, rồi tôi sẽ làm hay không làm. Đây là một hành vi vâng phục Thiên Chúa, không còn phải là do sáng kiến riêng của tôi nữa.
Thường ra khi cầu nguyện, tôi không nghe được tiếng Chúa nói như thế nào. Người không trả lời rõ ràng cho tôi là làm hay không. Nhưng khi cầu nguyện như thế, tôi muốn trao sự việc cho Thiên Chúa, không muốn quyết định một mình, muốn tạo cơ hội cho Chúa có thể xen vào cuộc đời và công việc của tôi. Nếu không nghe thấy rõ ràng tiếng Chúa, tôi sẽ dựa vào những tiêu chuẩn biện phân bình thường để hành động, và hành động này sẽ là một hành vi vâng phục Thiên Chúa.
Cũng như một người tôi tớ trung thành không bao giờ làm theo ý kiến của người ngoài, mà không biết ý của chủ mình ra sao. Người đó trước hết sẽ nói: “Để tôi hỏi ý chủ tôi xem đã”, thì cũng vậy, người tôi trung của Chúa, trước khi hành động, đã tự nhủ: Tôi phải cầu nguyện một chút để biết Chúa có muốn tôi làm hay không. Như vậy, ý muốn của Thiên Chúa ngày càng thấm nhập sâu xa vào cuộc đời tôi, làm cho nó phong phú, biến nó thành một “hy lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Cả cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời vâng phục Thiên Chúa, âm thầm cho thấy Người là Chúa cộng đoàn chúng ta, của Giáo hội và của thế giới.
Thánh Grégorio Cả nói: “Thiên Chúa dạy ta khi thì bằng lời, khi thì bằng công việc, tức là qua những biến cố và tình huống”. Hình thức vâng phục Thiên Chúa, thường vào số đòi hỏi nhất là vâng phục tình huống. Có những tình huống khó khăn, thậm chí vô lý, mà chẳng thay đổi gì, cho dù ta đã cố gắng và cầu nguyện nhiều. Lúc ấy phải coi tình huống này như là ý muốn âm thầm nhưng dứt khoát của Chúa dành cho ta. Kinh nghiệm cho thấy, khi chúng ta tỏ ra hoàn toàn vâng phục ý Chúa, thì tình huống khó khăn đó không còn làm chúng ta lo lắng nhiều, và chúng ta cảm thấy được bình an hơn (x. Lm. Micae Trần Đình Quảng).
3. Vâng lời để trở nên giống Chúa Giê-su.
Thánh Tô-ma A-qui-nô thấy trong sự vâng lời của tu sĩ một hình thức hoàn hảo nhất của việc bắt chước Đức Ki-tô, mà thánh Phaolô đã nói: “Người đã vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự” (Pl 2,8). Vì thế, vâng lời đứng hàng đầu trong hy lễ toàn thiêu của việc tuyên khấn dòng. Cha ông ta có câu tục ngữ: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Người sống đời thánh hiến là người nên giống Chúa Giê-su, mà Chúa Giê-su đã sống và chết cho sự vâng lời Chúa Cha, nên những ai theo Chúa Giê-su thì cũng nên giống Người trong việc sống vâng phục.
Sự nên giống Chúa Giê-su trong đức vâng lời, là tu sĩ phải biết dâng chính mình làm của lễ, học lấy sự vâng phục, sẵn sàng chịu thử thách, hoàn thành nhiệm vụ được giao, và cộng tác cứu độ:
Dâng mình làm của lễ: Chúa Giê-su dâng chính mình làm của lễ chuộc tội cho nhân loại, để cho ai vâng lời, tin nhận Chúa thoát khỏi sự đoán phạt đời đời, và sống cuộc đời mới làm đẹp lòng Chúa “Người đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình” (2 Cr 5,15). Biết dâng chính mình làm của lễ làm cho tu sĩ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su, trong việc sống trao ban tất cả vì mọi người. Sống là sống cho Chúa và cho anh em.
Học tập sự vâng lời: Dầu là Con Một Thiên Chúa, nhưng trong địa vị là một con người trọn vẹn, Chúa Giê-su cũng phải học bài học của sự sẵn sàng vâng phục trọn vẹn Chúa Cha: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Hr 5,8-9). Vâng lời không phải là điều dễ dàng mà bất kỳ tu sĩ nào cũng có được trong một sớm một chiều, mà cần phải có một sự rèn luyện trường kỳ, phải được thanh luyện qua thời gian và thử thách để có thể đạt đến sự vâng phục trọn vẹn.
Sẵn sàng chịu sự thống khổ: Chúa Giê-su học lấy sự vâng lời qua việc bước lên thập giá theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22,42). Vâng phục trọn vẹn là tinh thần sẵn sàng chịu thống khổ trước mọi hoàn cảnh. Bởi con đường theo Chúa là con đường thập tự, con đường hi sinh. Vinh quang nào cũng phải kinh qua thập giá, tu sĩ phải sẵn sàng trước bao thử thách cam go mới có thể thực thi được thánh ý Chúa gửi đến cho mình qua đức vâng lời.
Hoàn thành chức phận được giao: Công việc của Chúa Giê-su hoàn tất khi Người chết trên thập giá: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm” (Ga 17,4). Mục đích Chúa Giê-su hi sinh trên thánh giá, là trở nên cội rễ sự cứu rỗi đời đời cho ai biết vâng lời trọn vẹn. Mục đích cuối cùng của người theo Chúa là trở nên giống Chúa và nên ơn cứu rỗi cho các linh hồn.
Đối với tu sĩ việc thực hành ba lời khuyên phúc âm Vâng Phục, Khiết Tịnh, Nghèo Khó được coi như là những yếu tố làm cho đời sống của họ phân biệt với đời sống của người giáo dân. Ba lời khấn dòng được coi như là yếu tố cấu tạo của đời tu trì. Cách đặc biệt, lời khấn vâng lời của tu sĩ tự nó bày tỏ cho người khác một hình ảnh sống động về Đức Ki-tô; chính Đức Giê-su khi xuống trần gian thi hành thánh ý Chúa Cha cũng đã sống trọn vẹn phận vị Người Con qua thái độ Vâng Lời: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34).
Khi chọn đời sống tu trì, tức là đi theo Đức Ki-tô, người môn đệ của Đức Ki-tô đích thực phải là người trở nên giống Thầy mình; đó là một Đức Ki-tô vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Thư gửi tín hữu Hípri đã quảng diễn lời Thánh Vịnh 40 khi Đức Giê-su bước vào trần gian: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Hr 10,5-7). Chính nhờ sự vâng phục mà Đức Ki-tô đã nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời (x. Hr 5,8-9).
Đức Ki-tô luôn lấy thánh ý Chúa Cha làm lẽ sống cho mình (x. Ga 5,30; 6,38; 12,27-28; 17,4). Thánh Phaolô đã tóm lại tất cả cuộc đời dương thế của Đức Ki-tô như thế này: “Người đã vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2,8).
Từ gương sống đó, chúng ta cũng hiểu được yêu sách mà Đức Ki-tô đặt ra cho những ai muốn theo Người. Người muốn cho họ không phải chỉ dạ vâng ngoài miệng nhưng thực sự thi hành thánh ý Cha trên trời (x. Mt 7,21). Và hơn ai hết, tu sĩ khi tuyên khấn vâng lời bề trên, vị đại diện của Thiên Chúa, là họ đặt lý tưởng đời mình nơi việc đi theo và bắt chước Đức Ki-tô, họ muốn cố gắng họa sát sự tuân phục mà Người đã sống và đã dạy: vâng phục vì thảo hiếu với Chúa Cha, vâng phục vì phục vụ Nước Trời.
Như vậy có thể nói rằng khi sống trọn vẹn lời khấn vâng lời, tu sĩ sẽ nên giống Đức-Ki-tô-Vâng-Phục-Chúa-Cha trong sứ mạng mang ơn cứu độ cho thế giới. Lời khấn đó không phải chỉ là chuyện riêng của tu sĩ với bề trên của mình, nhưng sức ảnh hưởng của nó có tầm mức lan rộng, tức là làm chứng cho người khác về một Đức Ki-tô Cứu Độ (từ Duy Linh. OP).
4. Vâng lời để cứu độ
Sự vâng phục này là khởi đầu của nguồn ơn cứu độ, vì nếu Đức Giê-su không vâng phục Thiên Chúa để trở thành Đấng Em-ma-nu-en, nhằm cứu chuộc nhân loại tội lỗi, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ phải chọn con đường khác. Tuy nhiên, con đường tự hủy mà Đức Giê-su đã chọn là con đường tuyệt vời nhất, bởi vì nó diễn tả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đã được thánh Gioan nhắc đến, ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Sự vâng lời của Đức Giê-su hoàn toàn được diễn ra trong tự do và tự nguyện, như trong thư Híp-ri nói đến: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói : Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa : Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Hr 10,4-7). Hay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34 ). Chính nhờ sự vâng lời tuyệt đối trong tự do này, mà Đức Giê-su trở thành nguồn ơn cứu độ đến muôn ngàn đời.
Thiên Chúa muốn sự vâng phục, chứ không phải hy tế (x. 1Sm 15,22 ; Hr 10,5-7). Đúng là trong trường hợp của Đức Giê-su, Thiên Chúa cũng muốn hy tế, nhưng hy tế chỉ là phương tiện, còn vâng phục mới là mục đích. Thiên Chúa trực tiếp muốn sự vâng phục, còn hy tế chỉ là muốn gián tiếp, như một điều kiện giúp cho sự vâng phục có thể thực hiện được và thực hiện một cách chính thực (authentique). Điều thư Híp-ri viết là theo nghĩa ấy: “Đức Ki-tô đã phải trải qua nhiều nỗi đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”. Cuộc Khổ nạn của Đức Ki-tô là bằng chứng cho thấy Người vâng phục như thế nào và đến mức nào. Điều đặc biệt là, khi sự vâng phục đạt đến mức thập toàn, Người đã nên ơn cứu độ cho thế giới.
Thánh Phê-rô nhắc nhở chúng ta trong thư 1 Pr 2,21: “Đức Ki-tô đã chịu khổ vì anh em, để lại cho anh em một mẫu gương, để anh em dõi theo vết chân Người”. Suy nghĩ về sự vâng phục có thể góp phần tạo ra một bầu khí thiêng liêng chính đáng và thanh thản trong Giáo hội hoặc trong các cộng đoàn tu trì, mỗi khi có thay đổi về nhân sự hay nhiệm sở.
Người vâng phục là người biết suy gẫm, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Người vâng phục là người đơn sơ, đồng thời cũng là người chú tâm nhiều hơn về sự thiêng thánh của phẩm giá con người trong cõi thinh lặng. Người vâng phục biết chấp nhận những gì Thiên Chúa gửi đến cho mình, đồng thời biết sẵn sàng chịu đựng muôn hình thức đau khổ trong cuộc sống với tâm tình hiền hòa, kiên nhẫn, phó thác. Người vâng phục biết tìm bình an giữa những gian nan khốn khó; tìm thinh lặng giữa những ồn ào náo động; tìm thánh ý Thiên Chúa giữa những cám dỗ giăng đầy; tìm sự thật giữa những gian dối bội bạc; tìm tình yêu giữa những oán thù ghen ghét. Nói cách khác, người vâng phục biết thinh lặng sống theo những giá trị của Nước Thiên Chúa giữa biển đời đầy giông tố bão bùng này.
Sự vâng phục Thiên Chúa và Giáo Hội sẽ giảm sút, nếu nghĩ Giáo Hội như một xã hội hoàn hảo, ngay từ đầu đã được ban đủ mọi phương tiện thích hợp, để chuyển đạt ơn cứu độ cho con người, không cần có những can thiệp mới nào của Thiên Chúa. Nhưng từ khi Giáo Hội lại được quan niệm vừa là thể chế vừa là mầu nhiệm, thì sự vâng phục cũng lại được quan niệm là vâng phục cả Thần Khí nữa, chứ không chỉ vâng phục thể chế. Không chỉ vâng phục con người, mà tiên vàn là vâng phục Thiên Chúa. Trong một Giáo Hội thu nhỏ là các cộng đoàn tu trì, chúng ta cũng theo nguyên tắc như vậy.
Khi một mệnh lệnh được bề trên đưa ra, và bề trên đã cố gắng sống theo ý Chúa, đã cầu nguyện trước, chỉ muốn điều tốt cho anh em, chứ không nhằm lợi ích cá nhân, thì chính quyền bính của Thiên Chúa đến tăng cường cho mệnh lệnh hay quyết định này. Nếu có ai phản đối, Thiên Chúa sẽ nói với người đại diện của Người, như đã nói với Giê-rê-mi-a ngày xưa: “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng… Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1,18-19).
Giá trị cứu độ của vâng lời được thánh Phaolô nhấn mạnh khi nói về sự vâng phục của Đức Ki-tô: “Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muốn thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,19).
Tóm lại, sự vâng lời của tu sĩ sẽ trở nên dễ dàng, khi họ ý thức rằng, việc họ thi hành theo đức vâng lời là họ đang nên ơn cứu độ và họ đang cộng tác với Chúa để cứu độ các linh hồn. Từ đó, bất kể là công tác gì, nếu làm trong ý muốn cứu các linh hồn thì đều được làm cách vui vẻ và nhiệt huyết. Đặc biệt trong việc vâng lời ra đi truyền giáo mà chúng ta sẽ bàn ở bài sau.
BÀI IV. VÂNG LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO
Đọc Lời Chúa: Mt 10,1.5-13
Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
Đức Giê-su sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng:
“Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
“Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.
Những ai theo “đường vâng phục” của Đức Giê-su thì được mời gọi loan báo Tin Mừng của Người. Thánh Kinh cho chúng ta nhận thức rằng trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, sau khi các môn đệ gặp gỡ Đức Giê-su, nhất là lắng nghe và chứng kiến những việc Người làm, họ đã vâng phục theo lời mời gọi của Người, từ bỏ tất cả, để trở thành những môn đệ của Người. Ai muốn trở thành môn đệ và tông đồ trung tín của Đức Giê-su, người đó phải là chứng nhân cho đường vâng phục của Người bằng chính cuộc sống mình.
Bên cạnh chiều kích hiến tế, tức là khi khấn vâng lời tu sĩ dâng cho Thiên Chúa điều cao quý nhất của con người mình: ý chí tự do và quyền định đoạt về đời sống, hầu nên giống và thông dự vào sự hiến tế của Đức Ki-tô. Lời khấn vâng phục của tu sĩ còn bày tỏ một giá trị khác nữa rất liên hệ đến việc thực thi công tác tông đồ của mình, đó là giá trị nhân bản.
Chắc hẳn một tu sĩ đi hoạt động sứ vụ không bao giờ là người ra đi nhân danh mình, nhưng là nhân danh cộng đoàn. Sứ vụ của người tông đồ được nhận lãnh từ cộng đoàn; mà sứ vụ của cộng đoàn được nhận lãnh từ công hội; sứ vụ của công hội lại được khởi phát từ đấng sáng lập; đấng sáng lập lại được Giáo hội trao phó; và trên hết Giáo Hội lại nhận lãnh sứ mạng từ chính Đức Ki-tô. Giáo Hội luôn là thừa sai và Giáo Hội sinh ra thừa sai. Đức Ki-tô đã ban cho Giáo Hội lệnh truyền không bao giờ hết hiệu lực : “Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19-20). Như vậy, tu sĩ ra đi làm chứng cho Tin Mừng là lệnh truyền từ chính Đức Ki-tô; lệnh truyền này được thực hiện cách thống nhất qua thái độ vâng phục mà tu sĩ tuyên khấn với Bề trên của mình.
Thật thế, đối với những ai muốn thực thi công tác tông đồ trong Giáo Hội, sự vâng lời phải là thái độ tiên quyết; bởi vì các công tác cần được phối trí và ủy thác bởi những nhà cầm quyền Giáo Hội. Không ai được phép tự tiện coi sáng kiến riêng tư của mình như là hoạt động tông đồ nếu thiếu sự thông hiệp với Giáo Hội qua sự tuân phục những người lãnh đạo trong Giáo Hội.
Dù rằng tu sĩ được mời gọi phải quay về với nội tâm của chính mình để kiếm tìm ý Chúa, vì trong Thiên Chúa mỗi người đều được Chúa dành cho một kế hoạch riêng biệt, không ai giống ai; nhưng trong lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa nhiều lần bày tỏ ý định của Người qua các ngôn sứ, qua cộng đoàn. Vì thế, nhờ sự vâng lời các người thay mặt Chúa trong Hội Thánh mà ta có thể tìm thấy ý của Chúa.
1. Vâng lời qua lệnh truyền giáo.
Đoạn Tin Mừng thánh sử Mát-thêu mà chúng ta vừa đọc, cho thấy Chúa Giê-su đưa ra một chỉ thị rõ ràng và chi tiết: Đi đâu? Mang gì? Nói gì? Làm gì? Ăn gì?
Đi đâu? Các Tông Đồ được sai đến trước hết dành cho chiên lạc nhà Israel (x. Mt 10,7). Điều này cho thấy sứ mạng tại thế ban đầu của Chúa Giê-su là: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel” (Mt 15,24), nghĩa là ơn Cứu Độ đầu tiên đến từ dân Do-thái bởi Chúa Giê-su đã nhập thế làm một người Do-thái nên đã ưu tiên quy tụ “những con chiên lạc” trước. Lúc sai các Tông Đồ đi truyền giáo Chúa Giê-su cũng muốn các ngài tiếp nối điều này “Hãy đến với chiên lạc nhà Israel” (Mt 10,6). Đây không phải là một sự phân biệt dân Do-thái hay dân ngoại, mà là một sự tiệm tiến bắt đầu từ dân Do-thái trở đi. Nhiều người chúng ta vẫn mơ tưởng là phải đến nơi nào đó xa xôi băng rừng vượt suối để rao giảng Tin Mừng, nhưng lại quên mất rằng ngay bên cạnh nhà chúng ta đang ở, bạn cùng lớp chúng ta đang học, người cùng phòng chúng ta nơi công sở, làng xóm bên cạnh giáo xứ chúng ta là lương dân. Lại nữa, chúng ta mong đưa về cho Chúa những con chiên mới, những những con chiên lạc xung quanh chúng ta đang cần được giúp đỡ chúng ta lại không biết…
Vâng lời đi truyền giáo là để đi: đi để tìm đến nơi những con chiên đang ở khắp hang cùng ngõ hẻm, đi để đối thoại, để lắng nghe, để cảm thông, để giúp đỡ và cuối cùng là để đưa về cho Chúa. Chứ không phải cứ đứng đó, ngồi đó, thậm chí nằm đó mà ngủ trong sự ươn lười biếng nhác.
Mang gì? “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy” (Mt 10,9-10). Chúa Giê-su không bảo vô sản, không chủ trương tìm sự thiếu thốn vật chất, nhưng có một giá trị nội tâm, nó giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc với của cải trần thế, và mở rộng lòng mình ra trước sự giàu có tinh thần. Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh rằng, đừng để cho vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ và chi phối mình. Chúa muốn nhà truyền giáo phải dựa vào ơn Chúa trước khi dựa vào tiền bạc, dựa vào sự trợ giúp của Chúa hơn là sự trợ giúp của phương tiện vật chất. Chính ơn Chúa mới đem lại sự bình an thanh thoát trong tâm hồn. Sự từ bỏ, quên mình hoàn toàn mới chu toàn được sứ vụ rao giảng. Đi truyền giáo mà với đầy dẫy những thứ cồng kềng vướng bận thì khó mà toàn tâm toàn ý lo cho sứ vụ, bon chen và ham mê công việc lấn át hết thời giờ cho Chúa. Hơn nữa, loan Tin Mừng cốt yếu là làm chứng cho Chúa Giê-su, mà Chúa Giê-su đó đã sinh ra trong khó nghèo, sống kiếp nghèo và chết trong sự trần trụi trên thập giá. Vì thế, nếu đời sống của người rao giảng không thể hiện được tinh thần nghèo sẽ tự nó trở nên phản chứng.
Vâng lời đi truyền giáo là mang đến cho chiên chính hình ảnh sống động của một con người chỉ mang Chúa đến cho họ, chứ không phải trên những chiếc xe đắt tiền hay phương tiện mang đeo đẳng cấp. Người truyền giáo ở một đẳng cấp cao hơn về nhân đức, chứ không phải hơn người vì sự ăn diện giàu sang.
Nói gì? Sứ điệp mà Chúa Giê-su muốn rao giảng là: “Hãy nói với họ rằng Nước Trời đã gần đến” (Mt 10,7). Rao giảng Tin Mừng là làm cho muôn dân trở thành môn đệ, trở về làm con Chúa, trở thành anh em một nhà… và như vậy, vương quốc Nước Trời đã chính thức hình thành ngay trên trần gian này. Cùng với việc rao giảng Nước Trời là đem bình an đến cho những ai đón nhận Tin Mừng: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, thì -bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em” (Mt 10,12-13). “Bình an cho nhà này”. Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, tiên vàn hãy đem bình an đến cho mọi người. Sự xuất hiện của các chứng nhân Tin Mừng là đem đến cho con người sự bình an đích thực của Chúa, phá tan những lo âu, chia rẽ và hận thù.
Vâng lời đi truyền giáo là phải trở thành con người của bình an. Đến đâu thì tạo nên sự bình an cho nơi đó, chứ không phải đem đến những rạn nứt chia rẽ ngay từ trong anh em đồng môn, trong tương giao với những người cho mình nơi lưu ngụ. Kiến tạo bình an chứ không phải thành kẻ ngồi lê mách lẻo. Chính sự bình an làm cho người ta cảm nhận được Nước Trời đã hiển trị. Con người của bình an sẽ tạo nên một môi trường bình an và cải biến tâm hồn nhiều người trở lại theo Chúa.
Làm gì? “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8). Cùng với việc rao giảng, các Tông Đồ nhận được năng quyền chữa lành để vừa củng cố niềm tin, vừa đẩy lui quyền lực của sự dữ và ma quỷ. Cùng với việc rao giảng Tin Mừng là biết cảm thông, thăm viếng xoa dịu những bệnh tật tinh thần cũng như vật chất. Tất cả đều được lãnh nhận nhưng không từ nơi Chúa chứ không do sức riêng mình, nên Chúa cũng mời gọi các Tông Đồ cho đi một cách nhưng không mà không đòi hỏi được đền đáp.
Rao giảng và chữa lành là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Hay nói cách khác, Tin Mừng và cuộc sống liên kết với nhau, đời sống tôn giáo và phát triển xã hội cùng song hành.
Ăn gì? Trong Tin Mừng Lc 10,7-8 còn thêm: “Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em”.
Được sai đi truyền giáo phải biết chấp nhận với hoàn cảnh thực tế từ nơi sai đi cũng như nơi được sai đến. Không đòi hỏi điều này điều kia vượt quá khả năng cung cấp của người sai đi, cũng không tìm kiếm một chế độ cao hơn mức sống của nơi mình truyền giáo.
2. Vâng lời Thầy, con thả lưới (Lc 5,5).
Tin Mừng còn chỉ ra cho chúng ta kinh nghiệm về ơn thánh Chúa. Sức riêng con người không thể, nhưng nhờ ơn thánh Chúa thì con người có thể làm được. Phê-rô, một ngư phủ thâm niên, nhưng đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì đã thực sự bị hấp dẫn bởi lời đầy quyền năng và mẻ cá lạ lùng Chúa ban cho. Sự kiện này chỉ ra sự bất toàn, yếu đuối của con người không thấm vào đâu so với quyền năng của Chúa Giê-su. Sức riêng chúng ta không thể làm được gì “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5) hay như chính thánh Phê-rô đại diện các tông đồ đã thưa đầy xác tín rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Đây là lời thưa của một con người đã từng trải nghiệm thất bại, chối từ được nâng đỡ và đứng dậy để bước đi.
Chúng ta tìm hiểu tường thuật của Tin Mừng thứ IV về câu chuyện mẻ cá lạ lùng mà Chúa Giê-su Phục Sinh ban cho các môn đệ nhờ sự vâng lời (đọc Ga 21,1-14):
Tin Mừng kể rằng các môn đệ vất vả suốt đêm mà không bắt được gì, cho tới sáng Chúa hiện ra và bảo hãy thả lưới vào bên phải mạn thuyền. “Thả lưới vào bên phải thuyền” thiết nghĩ không có gì mới, và những tay nghề như Phê-rô hay An-rê có lẽ cả đêm cũng đã thả lưới đủ các kiểu bên trái hay bên phải rồi. Thực ra, những chi tiết như “vất vả suốt đêm”, “trời sáng Chúa Giê-su đến” và “thả bên phải mạn thuyền” mang ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt hình ảnh “bên phải mạn thuyền” cho thấy sức riêng ỷ lại vào khả năng mình và mò mẫm trong bóng tối, công việc truyền giáo (bắt cá) của các môn đệ hoàn toàn thất bại, cho tới khi có ánh sáng Đấng Phục Sinh đến, và khi bắt đầu truyền giáo bằng Tình Yêu từ cạnh sườn của Đấng Phục Sinh thì kết quả mới bội thu.
Chi tiết khi các môn đệ bước lên bờ, thì đã có cá nướng sẵn, nhưng Chúa Giê-su bảo đem cá các ông vừa mới bắt được đến nữa cũng mang một ý nghĩa biểu tượng. Đấng Phục Sinh không dọn sẵn cho các môn đệ tất cả, nhưng cần sự cộng tác của các ông. Thiên Chúa ghi nhận công lao vất vả của con người, để cùng kết hợp trong hy tế của Chúa Giê-su đem lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Lưới đầy những cá lớn mà lưới không bị rách, thuyền chở nặng gần chìm mà không chìm” cũng là một ý nghĩa biểu tượng mà tác giả Tin Mừng muốn chuyển tải. Giáo Hội quy tụ muôn dân nhưng vẫn đủ chỗ, không bao giờ thiếu chỗ cho các công dân gia nhập Nước Trời, và ân sủng của Thiên Chúa mà các chứng nhân mang đến cho mọi người không bao giờ bị vơi.
Như thế: Muốn truyền giáo, phải:
– Phải khởi đi từ Tình Yêu nơi trái tim (cạnh sườn) Chúa chứ không phải từ sức riêng mình;
– Rao giảng bằng sự cộng tác chính mình với ân sủng Chúa chứ không ỷ lại vào Chúa.
– Đặc biệt, rao giảng bằng phục vụ chứ không phải để được phục vụ.
“Vâng lời Thầy, con thả lưới”. Với kinh nghiệm đầy mình về nghề chài lưới, nhưng tự sức mình Phê-rô đã thất bại, nhưng khi Phê-rô bỏ đi cái tôi của mình, để tin tưởng và vâng phục Chúa, ông đã thành công với “mẻ cá lạ lùng”.
“Vâng lời Thầy, con thả lưới”. Phê-rô khi đáp trả vâng lệnh Chúa, đã không sống ỷ lại căn cứ vào kinh nghiệm riêng cá nhân, không ỷ lại vào những an toàn phàm trần, không nương tựa vào những suy tư và hành động của riêng cá nhân mình.
Mẻ cá của Phê-rô năm xưa đã làm cho ông nhận ra sự yếu đuối của mình và cuối cùng ông đã bỏ lại mọi sự để theo Chúa. Thật vậy, điều quan trọng hơn cả là sau những chiến tích làm được, Phê-rô không tự hào cho công trạng của mình, nhưng ông đã đến quỳ dưới chân Chúa để nhìn nhận sự yếu kém của mình. Đây là bài học lớn cho mỗi người chúng ta, đàng sau một thất bại, chúng ta không nản chí, nhưng tin tưởng vào Chúa và vâng lời Người chúng ta làm theo Chúa hướng dẫn thì thành công sẽ đến. Khi thành công, hãy quy hướng cho vinh quang Chúa, chứ đừng tự đắc là do mình.
Chúng ta cũng đã từng phân trần: Tài mọn, sức yếu như con làm sao kham nổi? Hoàn cảnh thế sự lại quá khó khăn, Chúa biết đấy “một con én không làm nên mùa xuân”. Thế nhưng Chúa vẫn cứ gợi ý, ra lệnh hay mời gọi: “Cứ thả lưới !” Xin chớ ngồi mà ước muốn suông hoặc chỉ biết chắp tay cầu nguyện! Hãy thả lưới dù trời đã sáng, nghĩa là cả lúc thế thời xem ra không thuận lợi.
Chúa Giê-su hứa cho những ai được Người sai đi là sẽ ban Thánh Thần thêm sức mạnh, soi sáng, hướng dẫn và giúp người truyền giáo biết nói gì (x. Lc 12,12).
3. Vâng lời trong Thánh Thần.
Người khát khao làm việc truyền giáo cần có sự chuẩn bị tốt nhất về mặt nội tâm, hay còn gọi là đời sống thiêng liêng. Nghĩa là, người truyền giáo, tự bản thân, là người có đời sống cầu nguyện chuyên cần, gắn bó với Lời Chúa, nhạy bén với thánh ý Thiên Chúa, tình bạn thân thiết với Chúa Ki-tô, cộng tác với Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, yêu mến chinh phục các linh hồn về với Chúa và để họ trở thành chiến sĩ của Chúa Ki-tô…
Để trở thành con cái Thiên Chúa trong ý thức và gắn bó với Người, chúng ta cần được Thánh Thần hướng dẫn (x. Rm 8,14); để trở thành anh chị em của nhau trong một Thân thể duy nhất, những kẻ đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô, chúng ta cần phải ngoan ngoãn vâng nghe theo Thần Khí của hiệp thông, Đấng tạo ra trong cộng đoàn nhiều đặc sủng khác nhau, nhiều việc phục vụ và hoạt động khác nhau, nhưng hoạt động ở trong mọi người (x. 1Cr 12,4-11), hợp thành một thân thể duy nhất gồm những chi thể kín múc ơn thiêng từ Người (1Cr 12,12-13).
Vâng lời Chúa Thánh Thần sẽ làm cho cộng đoàn nên hiệp nhất và hiệp thông, nên “một lòng một ý” (Cv 4,32), biến cộng đoàn có thể đặt mọi sự làm của chung (x. Cv 2,42-48) và thành một sự kiện có ý nghĩa của một “lễ bẻ bánh”. Linh đạo Ki-tô giáo nào cũng đều là linh đạo hiệp thông bởi vì Thánh Thần Đấng đặt nền cho linh đạo ấy và cho nó hiện hữu luôn luôn hành động (ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần: x. 2Cr 13,13). Khi thực hành phân định tìm thánh ý Chúa luôn cần phải quyết liệt khẩn cầu Chúa Thánh Thần. Chính Người là Đấng cần được kêu cầu để Người ngự xuống tâm hồn và trí khôn, linh hứng những gì phù hợp với ý muốn Thiên Chúa và ban cho ta sức mạnh hầu biểu lộ ý Chúa ra, và chia sẻ với anh em, và nhất là thực hiện ý đó theo logic của hiệp thông.
Chúa Thánh Thần nói với chúng ta trong phạm vi chúng ta biết giữ cho đời sống nội tâm chúng ta được sống động, đối thoại giữa thần trí chúng ta với Người (x. Rm 8,16). Bởi thế, mỗi anh em phải tỉnh thức không được ủy thác cho người khác việc phân định tìm kiếm thánh ý Chúa, bởi vì thiếu phân định về lâu dài sẽ có nguy cơ tinh thần chúng ta bị hao mòn teo tóp, vì không còn thực hành sử dụng đến tự do của tinh thần ta nữa. Nhìn nhận phận sự của quyền bính trong cộng đoàn không hề có nghĩa là chối từ lắng nghe Thánh Thần nói trong lương tâm người vâng phục.
Ra đi trong truyền giáo là ra đi trong sự vâng phục Thánh Thần, vì “Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng…” (ns. Nguyễn Đức Tuấn). Người truyền giáo được Chúa Thánh Thần nói trong mình, chứ không nói theo ý mình; người truyền giáo làm việc dưới sự hướng dẫn và sức mạnh Thánh Thần, chứ không phải tự sức riêng mình; đi đâu hay đến đâu là do Chúa Thánh Thần soi sáng cho bề trên sai đi, như thánh Phao-lô ngày xưa đến đâu đều dựa trên việc Chúa Thánh Thần cho phép hay không (x. Cv 16,6-7).
Truyền giáo dùng “phương pháp” của Chúa Thánh Thần soi sáng, chứ không phải dùng phương pháp của chính mình và theo ý mình. Có nhiều tôn giáo muốn gia tăng số lượng tín đồ nên đã dùng những cách thức truyền giáo rất “vật chất”. Họ hứa hẹn nếu ai đó theo đạo của mình thì sẽ được tặng lương thực, nhà cửa hay một cơ hội học hành… Và cũng đã có nhiều người vì thấy được lợi ích hấp dẫn như vậy nên đã đồng ý theo tôn giáo đó mà không cần biết đạo đó là đạo gì, có nền tảng ở đâu, sẽ đưa người ta đi về đâu. Có nhiều giáo phái thậm chí còn có những hoạt động như sai người đi khắp nơi, vào tận nhà người dân, giảng giáo lý cho họ và khuyên họ hãy “ăn năn sám hối” nếu không sẽ bị trừng phạt nay mai… Những kiểu chiêu dụ tín đồ như thế có thể có một vài thành công lúc khởi đầu nhưng sẽ không tồn tại lâu. Đạo Công Giáo đã tồn tại hơn 2000 năm trong lịch sử và hiện nay là một tôn giáo có số tín đồ lớn thuộc hạng bậc nhất thế giới. Nhưng chúng ta không “lôi kéo” người khác vào đạo của mình theo kiểu như vậy. Rất nhiều người xin gia nhập Công Giáo vì cảm nghiệm được nét hay nét đẹp nơi giáo lý chính thống và đúng đắn mà Chúa Giê-su truyền lại. Cũng có không ít người muốn trở thành người Công Giáo vì thấy được lối sống tuyệt vời của những mẫu gương của người Công Giáo. Nếu như Giáo Hội đã có thể sản sinh ra một kho tàng những thành quả tốt đẹp như thế thì chắc chắn con đường mà Giáo Hội truyền dạy phải là con đường đúng đắn và khả tín, dẫn đưa người ta tiến về cõi phúc đích thực.
Vâng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta thấy mình được mời gọi để tiếp tục trở thành nhân chứng sống động cho Đức Ki-tô qua lối sống tốt lành của chúng ta: quảng đại, hy sinh, hiền lành, yêu thương… Chính những giá trị này được sống cách trưởng thành và đúng đắn sẽ trở thành sự “thu hút” mạnh mẽ nhất mà không một bài giảng và sách vở nào có thể mang lại. “Hữu xạ tự nhiên hương”, nếu tôn giáo của chúng ta là một tôn giáo tốt và chân thật, tự nó sẽ sinh ra những hoa trái thơm ngọt là đời sống của chúng ta, và khi chúng ta sống tốt, tự nó sẽ có sức làm người ta tìm đến và muốn được như thế.
4. Thái độ khi vâng lời đi truyền giáo.
Để chuẩn bị lên đường truyền giáo và trở thành một người thợ lành nghề trên cánh đồng truyền giáo, thiết tưởng những người mang sứ vụ truyền giáo cần có một đời sống nội tâm trưởng thành và lành mạnh, một đời sống cầu nguyện chuyên cần, không cậy dựa vào sức riêng nhưng bám vào Chúa và để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, kinh nghiệm thâm sâu về Đức Ki-tô, học hỏi và tuân thủ các kỹ năng truyền giáo để có thể giới thiệu Chúa cho những người bạn chưa bao giờ nghe biết Tin Mừng. Đây chính là phong thái cần có của người truyền giáo và là điều kiện cũng như phương tiện giúp chúng ta lao tác trên cánh đồng của Chúa mà không e ngại thành công hay thất bại, vì chúng ta chỉ là cộng tác viên của Chúa Thánh Thần, là khí cụ để Thiên Chúa dùng phục vụ cho thánh ý của Người, là người tiếp nối sứ vụ còn dang dở của Chúa Giê-su. Do đó, không có thành công hay thất bại trong việc truyền giáo, chỉ có lòng tín thác và kinh nghiệm của Chúa khi lao tác trên cánh đồng truyền giáo mà thôi.
Ngày xưa, tại Bết Ên, ông Lót đã tự chọn cho mình nơi đi, còn ông Áp-ra-ham đã vâng nghe theo Chúa chỉ dẫn nơi lập nghiệp, và rồi cơ nghiệp ông Lót đã tiêu tan, còn Áp-ra-ham thì thành tựu (x. St 13,10-13). Cũng vậy, người đi truyền giáo chỉ có kết quả khi làm theo sự hướng dẫn của Chúa qua việc vâng lời.
Trở lại với ví dụ ban đầu: Khi con đường bị cắt đứt do tội nguyên tổ được nối lại bằng cây cầu thập giá, thì cũng đồng thời xảy ra ba trường hợp: Có người thẳng tiến bước đi trên cây cầu và nhanh đạt tới đích (thánh nhân); có người quá quen với chốn cũ, không lên đường đi nữa (mất ơn cứu độ); có người bước đi trên cầu, nhưng vẫn bị chi phối bởi hoa thơm cỏ lạ hai bên, nên bị té ngã (sự thanh luyện chiến đấu trường kỳ). Ba trường hợp trong việc đón nhận ơn cứu độ này tương đương với ba thái độ đón nhận của người khi nhận sứ vụ truyền giáo: Thái độ thẳng tiến, thái độ ươn lười và thái độ bị chi phối.
Thái độ thẳng tiến: Là những người sẵn sàng xin vâng, đặt niềm tín thác nơi Chúa qua lệnh truyền của bề trên. Họ như Áp-ra-ham lên đường đến nơi “Chúa sẽ chỉ cho”, nghĩa là tín thác thi hành ý Chúa mà chu toàn trách nhiệm được giao phó, mà không cần so đo tính toán thiệt hơn.
Thái độ ươn lười: Nhiều anh em khi lãnh lấy sứ vụ được sai đến các giáo xứ hay giáo điểm để lo việc truyền giáo. Nhận sứ vụ thì xem ra mau mắn, nhưng đến nơi định sở thì bắt đầu ngại khó ngại khổ và bê trễ, chểnh mảng, ươn lười không làm việc. Có người không làm việc phần thì do lười, phần thì đổ thừa cho công việc không thích hợp, trong khi truyền giáo trước hết là chu toàn công việc bổn phận”.
Thái độ bị chi phối: Có lẽ đây là trường hợp anh em thường mắc phải. Khi nhận bài sai thì hỷ hứng và đầy hăng hái nhiệt huyết, nhưng rồi khó khăn bắt đầu than, gian nan thành ra nản. Lại nữa, ban đầu thì truyền giáo, nhưng bị bao nhiêu vướng bạn, đam mê và những thứ khác chi phối lôi kéo, cuối cùng là cái chính không làm lại quàng cái phụ, thậm chí bị đổ vỡ hoặc đứt đoạn và bỏ cuộc.
Cuối cùng, dù cá nhân hay cộng đoàn, khi mọi người biết vâng lời tuân giữ những kỷ luật: từ kỷ luật nhân bản đến kỷ luật đời tu, thì sự vâng lời mới đạt đến sự thành toàn trong ý Chúa muốn. Đó là những gì chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần II.
Phần II: KỶ LUẬT ĐỜI TU
BÀI V. KỶ LUẬT CHO CHÍNH MÌNH
Đọc Lời Chúa: Lc 13,22-24
Trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.
Kỷ luật hay qui luật là những phép tắc đặt ra để ngăn ngừa sự phóng túng, có thể làm hại cho bản thân hay cho người khác. Vì vậy, trong bất cứ một tổ chức nào, một xã hội nào, dù lớn hay nhỏ, cũng cần phải có kỷ luật hay qui luật để bảo đảm lợi ích cho cộng đoàn và từng cá nhân.
Kỷ luật đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích cả tinh thần lẫn vật chất. Ích lợi tinh thần là giúp ta hoàn thiện con người mình, tiến lên đỉnh cao của trọn lành. Kỷ luật là khuôn mẫu và thước đo để rèn luyện con người. Một danh nhân nói: “Nếu không có cái thước thẳng, sao biết mình đã có chỗ cong. Đã không biết được chỗ nào mình sai thì làm sao biết sửa mình cho ngay ngắn được”. Một đời sống có kỷ luật ví như một tòa nhà có họa đồ kích thước: Muốn tròn phải có khuôn, muốn vuông phải có thước.
Kỷ luật chính là phương thế tuyệt hảo để giúp tu sĩ trung thành với lý tưởng theo sát Chúa Ki-tô và thu được những hoa trái tốt đẹp trong sứ vụ tông đồ. Kỷ luật thật cần thiết trong đời sống tu sĩ vì nếu không, tu sĩ thật khó trung thành trong ơn gọi theo sát Chúa Ki-tô và thực thi sứ vụ tông đồ cách tốt đẹp. Đời sống thực tế cũng đã cho thấy rằng, khi tu sĩ không tuân giữ kỷ luật, họ dễ dàng buông mình sống theo tự do, hành động theo sở thích và theo đuổi ý riêng hơn là tìm kiếm để thi hành ý Chúa. Sau cùng sứ vụ tông đồ họ làm cũng chẳng vì vinh danh Thiên Chúa mà chỉ vì bản thân.
1. Kỷ luật tự nguyện (cá nhân).
Kỷ luật cá nhân là mỗi người tự đặt ra một số kỷ luật để mình giữ, không ai bắt buộc như tôi phải đi ngủ và thức đúng giờ, tôi không hút thuốc, không uống rượu, không cờ bạc… Hoặc nghe lời người khác khuyên mà giữ chứ không ai bắt buộc, ví dụ như nghe lời khuyên của bác sĩ nên kiêng thứ này, kiêng thứ kia để khỏi bị bệnh gút…
Kỷ luật vốn rất khó, bởi sự mê hoặc của lười biếng: nằm dài trên sofa xem bộ phim truyền hình thật thoải mái biết bao, ôm điện thoại lướt mạng mới dễ chịu làm sao…. sống trong sự nhàn nhã lâu ngày, những người lười nhác sẽ ngày càng trở lên tạm bợ, không có hoài bão, không có lý tưởng. Những người chần chừ sẽ quen với việc tìm muôn vàn cớ khác nhau để an ủi mình. Những người ăn uống không điều độ, không có thời gian làm việc và nghỉ ngơi nhất định, cuộc sống không có “kế hoạch” sẽ gặp rất nhiều sai sót trong công việc và phiền não trong cuộc sống.
Hễ trì hoãn một việc gì đó thì bạn rất dễ bị thói quen dụ dỗ. Hôm nay không muốn đọc sách hay không muốn dự giờ kinh hoặc bỏ thánh lễ, ngày mai cũng có thể tìm lý do để lười biếng. Lần này không kiên trì, sự trốn tránh của lần sau, lần sau nữa sẽ nhanh chóng trở thành một lẽ đương nhiên. Không hoàn thành công việc một cách hiệu quả trong khoảng thời gian quy định, bạn sẽ cảm thấy lo lắng bất an. Không thực hiện một ước muốn nào đó của bản thân, bạn sẽ thấy bi quan, thất vọng. Khi tiết tấu cuộc sống bị đảo lộn, bạn sẽ mất kiểm soát… Cứ như vậy một thời gian dài, năng lượng tiêu cực ập tới cũng chẳng có gì kỳ lạ cả. Chính vì lẽ đó, kỷ luật cá nhân đối với mỗi người là điều hết sức cần thiết.
Ý nghĩa của kỷ luật chính là thúc đẩy bạn ràng buộc bản thân mình. Cất đi và thay đổi thói tùy tiện, dựa vào sức mạnh và ý chí kiên trì bền bỉ để tạo ra nguyên tắc làm việc thuộc về mình, tạo dựng nên một trật tự và tiết tấu mang tính quy luật ổn định. Đó chính là từ chối sự mê hoặc của tùy tiện, thiết lập một thói quen tốt trong hành vi thường ngày, thực sự biết cách tự kỷ luật, tự kiểm điểm bản thân.
Đặc biệt, kỷ luật tự nguyện này cũng gọi là “kỷ luật nhân bản” hay “những phép lịch sự”, nó như đúc kết từ nhỏ và được giáo dục nhân bản để đạt tới trưởng thành. Kỷ luật này cũng đánh dấu bước trưởng thành nhân bản của một con người. Thế nhưng, không thiếu những anh em đánh mất tính kỷ luật ấy, đến cả những cái tối thiểu như: Kính trên nhường dưới, cư xử nói năng lễ độ, đi thưa về trình, giờ nào việc nấy, ham ăn hố uống, chi tiêu hà tiện hoặc phóng túng, ngồi lê mách lẻo, kết nhóm tạo bè, nói xấu lẫn nhau.
Một người trưởng thành hay một tu sĩ thì không thể là:
– Sống kiểu cả bè một lứa, xưng hô tùy tiện, không xem ai ra gì.
– Muốn đi đâu hay ở đâu không cần phép tắc, không thèm trình báo cho người phụ trách.
– Giờ giấc tùy tiện, không tham dự chung, muốn ăn giờ nào thì ăn, muốn ngủ giờ nào thì ngủ.
– Tụm ba tụm bảy để buôn chuyện nói hành nói xấu bề trên và nói xấu nhau.
– Được giao việc chung thì không thể lắng nghe và không thể làm việc chung được với nhau.
– Chơi thân với người này, né tránh người kia. Điều đó chẳng cần tu người ta cũng vậy.
2. Kỷ luật bắt buộc.
Đây là loại kỷ luật buộc phải có khi một người chọn gia nhập vào một cộng đoàn tu trì. Kỷ luật này không phải là Tu Luật, Hiến Pháp hay các Nội Quy mà là tự mình phải có và phải tập.
Thật vậy, việc giữ kỷ luật của tu sĩ không giống với việc giữ luật ở các công ty, xí nghiệp hay tập thể ngoài xã hội vì họ chỉ cần tuân thủ theo đúng hình thức, còn tu sĩ không chỉ tuân giữ kỷ luật bên ngoài, mà còn cần có cả tâm tình yêu mến bên trong thì mới làm cho việc giữ luật trở nên trọn hảo, đồng thời thánh hóa chính bản thân tu sĩ trở nên thánh thiện.
Trích đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe (x. Lc 13,22-24), Chúa mời gọi chúng ta đi qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa. Qua được cửa hẹp ít nhất phải có ba điều kiện:
– Phải khom người lại chui mới lọt, nghĩa là hạ mình xuống sống khiêm tốn chứ không phải tự cao tự đại. Hãy học lấy Chúa Giê-su là Đấng hiền lành và khiêm nhường đã tự hạ mình từ Thiên Chúa xuống làm một con người hữu hạn nghèo khó.
– Phải “giảm cân” cho mình nhỏ lại mới chui qua được, nghĩa là biết trở nên con người nhỏ bé đơn sơ, tránh vơ vét để làm cho mình kềnh to ra vì giàu sang ích kỷ, tránh tham lam quyền lực và tiền của…
– Phải bỏ bớt hành lý thì mới dễ chui vào, nghĩa là bỏ bớt những gì làm ta vướng bận và lấn át chúng ta, như đam mê công việc mà bỏ bê việc lành, đam mê tình cảm mà sinh ra tội lỗi, tham thích vui chơi mà quên cả trách nhiệm.
Quy luật của cuộc sống, chẳng có gì đạt được mà không có sự nỗ lực cố gắng. Muốn giỏi phải học chứ không tự nhiên mà thi đậu, một hạt lúa vàng chín giọt mồ hôi chứ không phải bỏ ruộng hoang để chờ có lúa gặt. Của cải không tự trên trời rơi xuống, tri thức cũng không tự nó toàn tri, hạnh phúc không tự có nếu không vun đắp xây dựng… Cũng thế, đời tu dành cho bất cứ ai, nhưng không phải tự nhiên mà đạt tới, mà phải trải qua những gian truân khổ ái và hy sinh thì mới mong thành toàn. Những khó khăn vất vả nỗ lực ấy đó là bước qua “cửa hẹp” (một lối nói ẩn dụ), vì đời tu không dành cho kẻ sống buông thả và dễ dãi, cửa tiền tài, sắc dục, hư danh…
Để có được những thiện hảo hẳn nhiên không thể thiếu sự gắng công nỗ lực; để sống đời tu sự nỗ lực hoàn thiện bằng đời sống đạo đức càng trổi vượt hơn gấp bội. Thật thế:
– Kỷ luật bắt buộc tu sĩ phải có sự khiêm tốn, tránh tự cao tự đại: Chúa cần được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
– Kỷ luật bắt buộc tu sĩ trở nên con người đơn sơ nhỏ bé, tránh tham lam và ích kỷ vun vén cho mình, tránh tham quyền cố vị, tập sống trao ban và vị tha.
– Kỷ luật bắt buộc tu sĩ biết từ bỏ mọi vướng bận, tránh những đam mê thiếu lành mạnh, bớt ôm đồm đủ thứ công việc, tâp sống trách nhiệm và chu toàn bổn phận.
Việc giữ kỷ luật để bước theo Chúa Ki-tô đòi hỏi một sự từ bỏ lớn lao, đó là từ bỏ chính mình như lời Chúa nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Tu sĩ khi vâng giữ kỷ luật phải từ bỏ con người cũ, con người tự nhiên của mình với những ích kỷ, lười biếng, tự mãn, hưởng thụ, dễ dãi với chính mình, cùng những thói quen không phù hợp trong đời tu… Đồng thời đón nhận những thập giá trong đời sống hàng ngày của mình để bước theo Chúa.
Cần hiểu rõ ý nghĩa của kỷ luật và tuân giữ với lòng yêu mến, lúc đó kỷ luật sẽ giúp tu sĩ thăng tiến trong tình yêu mến Chúa, yêu mến cộng đoàn, và yêu mến ơn gọi Chúa dành riêng cho mình. Khi yêu mến, tu sĩ sẽ tuân giữ kỷ luật cách chu đáo, tận tình vì: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Mt 14,15).
Cần thành thật, khiêm tốn lắng nghe sự góp ý, nhắc nhở của những người có phụ trách, để nhận ra những thiếu sót của bản thân và sửa đổi để tránh đi vào những con đường sai lầm. Tu sĩ cũng có thể học hỏi kinh nghiệm, noi gương những anh em có đời sống kỷ luật tốt.
Hơn hết, tu sĩ cần ý thức sự yếu đuối, dễ sa ngã của mình để xin ơn Chúa giúp ta trung thành và mạnh mẽ trong việc tuân giữ kỷ luật “vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
3. Kỷ luật là làm chủ chính mình.
Khi lãnh Bí tích Rửa tội, Ki-tô hữu lãnh lấy ba sứ vụ: Ngôn sứ, tư tế và vương đế. Ngôn sứ là LÀM CHỨNG, tư tế là LÀM LỄ, vương đế là LÀM CHỦ.
Chúng ta đã nói đến làm lễ trong bài “Vâng lời như của lễ”; nói đến làm chứng trong bài “Truyền giáo”. Dưới đây chúng ta khai triển khía cạnh LÀM CHỦ:
Vương đế là vua, vua thì chủ quyền trên thần dân và cơ nghiệp. Người chịu phép Rửa tội nhận lấy chức vụ “vương đế” vừa mang ý nghĩa “làm con Chúa” vừa làm chủ được chính mình vượt trên ba thù: thế gian, xác thịt và tội lỗi.
Con người hơn con vật ở chỗ có lý trí và tự do; con vật không có hai đặc tính đó. Con người có tự do và chỉ có tự do để làm chủ được mình hay buông theo thú tính. Con người phải sống theo một lý tưởng, phải làm chủ không chịu để cho sự vật chi phối. Làm chủ được mình mới có tự do thật sự, bằng không sẽ trở thành nô lệ. Vì vậy, ông Denophile nói: “Người ta không tự do một khi không làm chủ được mình”. Hơn ai hết, tu sĩ là một con người đang tu sửa mình, nên phải biết làm chủ chính mình trước mọi hoàn cảnh và chọn lựa.
Ngày nay nhiều bạn trẻ thích thoát khỏi hàng rào kỷ luật, họ muốn sống tự do ngoài khuôn khổ theo đòi hỏi của thú tính với phương châm “Do as you please”, nghĩa là “Hãy làm những gì bạn thích” hay “Thích là làm”.
Thái độ “Thích là làm” là thái độ căn bản làm nguyên nhân cho mọi thứ tội ác trên thế gian ngày này: Vì “thích là làm”, A-đam và E-và đã bất chấp lề luật của Thiên Chúa và ăn trái cấm để gieo mầm sự chết cho cả loài người, Ca-in giết em mình là A-ben để thỏa lòng ghen tức, Đa-vít đã ngoại tình với vợ quan U-ri-gia và lập mưu giết U-ri-gia để che đậy tội ác của mình, Hê-rô-đê Cả giết các hài nhi ở Bê-lem và vùng phụ cận với hy vọng tiêu diệt Đấng Thiên Sai, các luật sĩ, biệt phái và thượng tế Do-thái đã tìm cách giết Chúa Giê-su để khỏi bị người sửa sai.
Hiện nay, hơn bao giờ hết người ta đang cổ võ thái độ “thích là làm”: Vì “thích là làm” nên trai gái tự do chẳng cần hôn nhân, người ta tự do ngừa thai hay thụ thai nhân tạo, tự do ly dị, tự do phổ biến phim ảnh sách báo khiêu dâm, tự do đồng tính luyến ái, tự do phá thai, tự do giết người êm dịu, tự do trợ tử, tự do buôn bán gian dối hay bóc lột nhân công để làm giầu.
Thái độ “thích là làm” ở đây là thái độ bất chấp lề luật của Thiên Chúa, không đếm xỉa gì đến lợi ích của kẻ khác, chẳng lắng nghe tiếng phản đối của lương tâm, và lãng quên phẩm giá của chính mình. Khi sống theo thái độ này, người ta đánh mất nhân phẩm của mình để sống theo thú tính (Phạm Quốc Hưng, Trong dòng đời, tr 89). Thái độ “thích là làm” vô kỷ luật ấy đã đem đến biết bao tại hại cho cá nhân cũng như cho xã hội bất cứ nơi nào.
Ngoài đời là vậy, nhưng tu sĩ thì phải sống chứng tá để lôi kéo lại kỷ cương cho thời đại. Tu sĩ sống lời khấn Vâng Lời thì không còn “thích là làm” mà là làm “điều Chúa thích”, làm điều bề trên và cộng đoàn muốn.
Chúng ta hãy đọc lại lời thánh Phaolô Tông Đồ khuyên nhủ tín hữu Côrintô: “Anh em đừng sống theo đam mê xác thịt” (1Cr 16,3). Phải có một nếp sống quân bình, đừng thái quá, đừng bất cập mà ở mức trung bình theo đúng cương vị của mình theo câu châm ngôn La-tinh: “Virtus in medio stat” – nhân đức đứng ở mức trung dung. Alexandre đại đế từng nói: “Thắng dễ ba quân nhưng khó thắng nổi chính mình”. Chính cái tôi quá lớn đã làm cho con người đôi khi mất tự chủ. Người ta thường nói: Muốn biết một người chân tu hay không, chỉ cần thử nói đụng đến họ coi cách họ phản ứng là biết ngay.
Người không biết mình thì hay đổ lỗi cho hàn cảnh hay do trường hợp này căn cớ khác. Một học sinh thi trượt thay vì biết mình lười ôn thi, thì lại đổ lỗi cho thiếu thì giờ học hoặt do cô thầy dạy dở.
Tuy nhiên, tự chủ không phải là một sự nín lặng mơ hồ, cũng không phải là một nhịn nhục thụ động, mà là cần sự bình tĩnh đối thoại để đi đến sự hài hòa, công bằng và chân lý. Chính Chúa Giê-su khi bị vả mặt, Người cũng phải nói: “Nếu tôi nói sai thì hãy cho biết sai chỗ nào?”… Những điều này sẽ được khai triển trong bài tiếp theo.
BÀI VI. KỶ LUẬT TRONG CỘNG ĐOÀN
Đọc Lời Chúa: Lc 9,57-62
Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
Đức Giê-su nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi! ” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.”
Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Trong một cộng đoàn lớn hay nhỏ, phải có kỷ luật hay nội qui cho mọi người giữ nhằm bảo vệ công ích. Loại kỷ luật này cần thiết để bảo vệ ích chung, nếu không thì sẽ trở nên rối loạn: “Ở đâu mà mỗi người gọi được là tự do hành động theo ý mình và buông tha theo phóng túng thì hỗn độn mất trật tự nhanh chóng hiện ra lan tràn” (N. Machiavel).
Mỗi tu sĩ đều thuộc về một nơi chốn, một cộng đoàn, nơi đó chúng ta chia sẻ cuộc sống, nâng đỡ nhau để thi hành sứ vụ của dòng. Trong nếp sống cộng đoàn, kỷ luật là một phương tiện hữu dụng giúp cho cá nhân và cộng đoàn tăng trưởng trên đường nên thánh. Kỷ luật cần thiết cho sự ổn định, hài hòa, gắn kết trong nếp sống chung.
Tinh thần sống tuân thủ luật lệ giúp con người biết quan tâm đến việc bảo vệ chính mình và như thế nó sẽ mang lại cho họ sự an toàn và tự do. Nếu bạn biết nơi mình chơi an toàn thì bạn có thể thấy mình được tự do khỏi mối bận tâm đến những nguy hiểm không cần thiết. Cũng tương tự như vậy, những luật lệ trong cộng đoàn được đưa ra để bảo vệ cộng đoàn và mọi thành viên trong đó. Khi mọi người cùng tuân thủ thì họ cũng dễ dàng tin tưởng nhau.
Giữ kỷ luật cộng đoàn, trước hết phải xác định mục đích mình lựa chọn theo Chúa, kế đến phải biết sống đời sống chung, cuối cùng là phải tuân giữ Hiến Pháp của tu hội.
1. Xác định mục đích mình chọn ơn gọi này.
Đoạn Tin Mừng trên (Lc 9,57-62), chúng ta thấy Chúa Giê-su đã trả lời cho hai trường hợp đến xin theo Người cùng chung một điều kiện là “từ bỏ”, từ bỏ những tìm kiếm mang tính trần thế và từ bỏ cả những vương vấn tình cảm, thậm chí là liên hệ ruột thịt.
Thánh Mát-thêu kể ra hai trường hợp: một kẻ “xin nhập tu” và một “người đang tu thì xin về phép thăm gia đình” (khác với thánh Lu-ca kể thêm trường hợp thứ ba là “cầm cày còn ngoảy lại sau” – nghĩa là kẻ tu mà đứng núi này trông núi nọ, bắt cá hai tay và vẫn tơ tưởng hoa thơm cỏ lạ bên đường – x. Lc 9,57-62).
Với trường hợp “tìm hiểu” thì Chúa Giê-su xác định điều kiện theo Người là lo tìm Chúa chứ không tìm được tiện nghi và quyền lực; còn trường hợp “xin về phép” thì Chúa Giê-su dạy tu thì lo tu chứ đừng vương vấn lo lắng chuyện gia đình nữa.
Trường hợp thứ nhất: Một kinh sư tiến đến thưa Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Đức Giê-su trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,19-20).
Nhiều người khi nghe câu Tin Mừng này, thường giải thích theo nghĩa “khó nghèo” và cho rằng Chúa Giê-su nghèo đến mức thua cả con chồn con cáo, vô gia cư và ăn bờ ngủ bụi. Nhưng thực ra, Chúa tuy nghèo đấy nhưng Chúa có nhà cửa và khi Chúa chịu chết và Phục Sinh thì Mẹ Maria vẫn còn sống, vả lại các Tin Mừng vẫn kể chuyện Chúa đưa các môn đệ về ở nhà với Người (x. Ga 1,39).
Đúng hơn, Chúa Giê-su xác định cho ai muốn bước theo Người phải từ bỏ việc tìm kiếm quyền lực trần thế. Điều này được kể là tìm kiếm đầu tiên của các môn đệ và Chúa đã phải rất nhiều lần cảnh báo các ông hiểu lầm về sứ mạng của Người (các ông mong khi Chúa làm lớn thì các ông cũng được chức này quyền nọ, vinh thân phì gia), Gio-an và Gia-cô-bê thì đòi ngồi bên hữu bên tả, thậm chí đến khi Chúa sắp chịu Tử Nạn mà các ông vẫn còn lo cãi nhau ai sẽ làm làm lớn làm nhỏ; khi Chúa sống lại các ông còn hỏi là Thầy sắp lập vương quốc chưa? (x. Cv 1,6).
Thật ra, đây là kiểu nói ẩn dụ mà Thánh Kinh thường sử dụng: Chồn cáo là loài rình rập trong bóng tối, ám chỉ Hê-rô-đê (x. Lc 13,32); trên cờ hiệu của lính Rô-ma (Phi-la-tô) có hình mỏ chim đại bàng. Hê-rô-đê và Phi-la-tô là đại diện cho hai thứ quyền lực bản địa và thực dân thời bấy giờ. Khi nói “chồn có hang, chim có tổ”, Chúa Giê-su muốn nói trước với kẻ xin theo Người rằng: Theo Hê-rô-đê tuy bù nhìn nhưng còn có quyền lực và danh vọng, theo Phi-la-tô còn có quyền công dân Rô-ma và thế giá mẫu quốc; còn theo Chúa Giê-su thì đừng mong gì quyền lợi thế trần, nhưng là hạ mình xuống phục vụ anh chị em mình.
Tin Mừng kể rõ người đến xin theo Chúa ở đây là một kinh sư, chúng ta không biết là sau khi Chúa ra điều kiện từ bỏ, ông này có còn dám theo hay không, chỉ biết rằng trong Nhóm Mười Hai cũng có Ba-tô-lô-mê-ô là kinh sư.
Xét về giai cấp xã hội và tôn giáo Do-thái, tuy giới kinh sư không có thực quyền, nhưng họ có một chỗ đứng rất lớn về mặt tôn giáo trong việc giải thích Thánh Kinh và được mọi người kính trọng, một số thỏa hiệp với Rô-ma để có được những quyền lợi nhất định. Giới kinh sư không thiếu những người thích ăn mặc trịnh trọng, muốn được ăn trên ngồi trốc và muốn được mọi người chào hỏi… Và có lẽ chính vì vậy mà khi “vị kinh sư” này đến xin “đi tu” thì Chúa Giê-su xác định ngay từ đầu điều kiện “từ bỏ tư tưởng tìm kiếm quyền lực trần gian”.
Và đây là vấn đề: Không thiếu những người tìm theo Chúa, cách riêng trong ơn gọi tu trì, họ tìm gia nhập các dòng tu hay tu hội với mong muốn được đổi đời, được làm làm ông này bà nọ, để được kính trọng gọi là cha là soeur… phần vì ưa danh vọng phần vì áp lực gia đình dòng họ muốn đã đi tu thì phải làm cha hay làm chức gì đó có tiếng tăm, để rồi không thiếu những người đã tìm mọi cách, thậm chí dùng cả những thủ đoạn thấp hèn để đạt mục đích.
Cần xác định lại mục đích theo ý Chúa và ý Giáo hội muốn: Đi tu là để nên thánh, chứ không phải để tìm lợi lộc trần thế danh vị.
Nếu tìm kiếm sai mục đích đời tu, thì khi không được đáp ứng hoặc phải chờ thời gian quá lâu, chắc chắn sẽ sinh chán nản, buông xuôi, hoặc bỏ ơn gọi.
Trường hợp thứ hai: Một môn đệ khác thưa với Người: “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.” (Mt 8, 21-22).
Trường hợp thứ hai này là một môn đệ, nghĩa là người đã đi theo Chúa rồi, chứ không phải mới đến xin “nhập tu” nữa.
Hôm nay môn đệ này đến xin Chúa Giê-su để “về phép”, có thể là muốn phụng dưỡng cha già mẹ yếu của mình cho đến khi cha mẹ chết rồi mới “vào tu tiếp”, mà không nhận ra được tính khẩn thiết của việc loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, đi tu nhưng vẫn coi công việc gia đình cao hơn sứ vụ Chúa giao phó. Cũng có thể đó là một cái cớ người môn đệ này vịn vào để thoái thác; những bổn phận ấy của anh có lẽ chẳng qua là bổn phận thuộc về thế giới của “kẻ chết”.
Khi nghe lời quả quyết cách dứt khoát của Chúa Giê-su theo kiểu Người không thể mất thời giờ với những môn đệ không biết sẵn sàng hi sinh tất cả vì Tin Mừng, có lẽ không ít chúng ta cho rằng Chúa Giê-su đòi hỏi quá khắt khe chăng? Thật ra, không phải Chúa Giê-su xem nhẹ đạo hiếu, nhưng Người muốn cho những ai đã chọn bước theo Chúa cần có sự siêu thoát, tự do lựa chọn chứ không ai ép buộc. Người muốn môn sinh phải ưu tiên cho việc Chúa hơn những tương quan khác. Đã chọn sứ vụ rao giảng Tin Mừng thì phải giảm thiểu tối đa những vương vấn gia đình.
“Kẻ chết chôn kẻ chết”. Với cách diễn đạt của Tin Mừng, khi chọn theo Chúa là đang bước vào cõi sống, được Chúa làm gia nghiệp là đạt đến sự sống đời đời; còn không, theo Chúa là vẫn đang bị giam giữ dưới quyền lực sự chết phần linh hồn. Vì thế, cứ để thể gian lo chuyện sống chết thể lý, còn người theo Chúa lo rao giảng Tin Mừng về sự sống đời đời cho những ai còn đang ở trong bóng tối sự chết ấy.
Sự thật là không thiếu các tu sĩ, cái xác có vẻ tu, nhưng cái tâm thì vẫn còn đủ thứ liên hệ: Liên hệ những thứ tình cảm không thích hợp với lời khấn khiết tịnh; liên hệ với những giao dịch bên ngoài để tìm kiếm vật chất; liên hệ vì bận tâm lo lắng cho cha mẹ anh chị em…
Vì vậy, hãy đặt lại mục đích mình lựa chọn là gì, sứ vụ mình đã mang là gì? Để toàn tâm toàn ý lo giữ tôn chỉ và mục đích mà tu hội đã đưa ra.
Trường hợp thứ ba là “cầm cày còn ngoảnh lại sau” – nghĩa là kẻ tu mà đứng núi này trông núi nọ, bắt cá hai tay và vẫn tơ tưởng hoa thơm cỏ lạ bên đường – (x. Lc 9,57-62).
Chúng ta thường xem câu nói của Chúa Giê-su “cầm cày mà còn ngoảnh lại sau thì không xứng với Thầy” là việc còn vấn vương nuối tiếc quá khứ, như dân Do-thái khi đã xuất Ai-cập nhưng vẫn tiếc nhớ củ hành củ tỏi khi còn nô lệ. Thế nhưng, suy rộng ra cũng được hiểu là một sự không hài lòng hay không thỏa mãn với nơi sống hiện tại, không còn thực sự muốn gắn bó với cộng đoàn mình đang sống.
Tình trạng chân trong chân ngoài này xảy ra rất nhiều nơi các cộng đoàn tu trì hiện nay. Một số tu sĩ, thậm chí đã khấn trọn đời đang ở dòng này, tu đoàn này, hiệp hội này, tu hội này… nhưng tâm hồn thì đang hướng đến tìm kiếm nơi khác thế giá hơn, có triển vọng hơn, đảm bảo tương lai hơn, dễ “thăng quan tiến chức” hơn, thoải mái hơn, có cơ hội thể hiện mình hơn, được kính trọng hơn… Những người như thế, tự chứng tỏ cho thấy họ xác định sai mục đích ban đầu khi bước vào ơn gọi, tự cho thấy họ là con người hay thay đổi thiếu lập trường, đặc biệt là không có lòng yêu mến ơn gọi và yêu mến cộng đoàn mà mình đã chọn.
Khi đứng núi này trông núi nọ, tu sĩ lại quên mất rằng, ngày họ chọn vào tu là hoàn toàn tự do tự nguyện, chứ không ai bắt cóc đem họ vào nhốt họ và bắt tu cả; họ cũng quên mất rằng, có thể họ đã vào tu vì bất đắc dĩ khi khả năng và trình độ của họ không thể đi chủng viện hoặc vào những dòng tu thế giá đòi hỏi cao hơn. Có những anh em hay đòi hỏi cũng quên mất rằng, họ được đi học, được nâng đỡ, được như ngày hôm nay là do Hiệp Hội mình đang sống đã dùng chính pháp nhân hiệp hội để xin cho mình vào học ở học viện này kia, chứ bản thân họ thi thì khó mà đậu hay khó mà được nhận vào.
Khao khát thì tín thác. Việc các anh em khao khát được tiến chức là một kháo khát chính đáng và rất tốt khi đó là khao khát muốn phục vụ nhiều hơn, hữu hiệu hơn, có ích cho các linh hồn hơn. Tuy nhiên, người thực sự vì mến Chúa và tinh thần phục vụ cộng đoàn thì sẵn sàng tín thác và chờ đợi ý Chúa sắp đặt, chứ không phải dễ nản chí, phàn nàn hoặc bỏ ơn gọi.
2. Đời sống cộng đoàn – Giữ luật thì luật giữ mình.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: “Bằng việc liên tục thúc đẩy tình yêu huynh đệ, dưới hình thức đời sống chung, đời thánh hiến cho thấy sự tham dự vào sự hiệp thông Ba Ngôi có thể thay đổi các tương quan con người và tạo ra những kiểu liên đới mới. Bằng cách đó, đời thánh hiến nói cho con người về vẻ đẹp của hiệp thông huynh đệ, cũng như về những con đường dẫn tới sự hiệp thông ấy” (VC, 41).
Hiến Pháp Hiệp Hội chúng ta ghi: “Đời sống huynh đệ là vấn đề quan trọng của mọi dòng tu mà cũng là một trong những điều ràng buộc cho mọi thành viên Hiệp Hội, đó là: Đời sống chung phải thể hiện sao cho được “Một tấm lòng, một linh hồn” (Cv 4,32). Vì thế, tất cả thành viên phải sống trong cộng đoàn” (Hiến pháp SSP mục 4, số 36).
Thật vậy, mỗi người chúng ta đều thuộc về một nơi chốn, một cộng đoàn, nơi đó chúng ta chia sẻ cuộc sống, nâng đỡ nhau để thi hành sứ vụ của tu hội. Trong nếp sống cộng đoàn, kỷ luật là một phương tiện hữu dụng giúp cho cá nhân và cộng đoàn tăng trưởng trên đường nên thánh. Kỷ luật cần thiết cho sự ổn định, hài hòa, gắn kết trong nếp sống chung. Tuy nhiên, sự giằng co giữa cái “chúng ta” và cái “tôi” trong mỗi người có khi lại biến kỷ luật trở thành sợi dây trói buộc đời tu trong bức tường phòng vệ. Muốn được “tự do trong kỷ luật”, chúng ta cần sống trong sự hiện diện của Chúa trong mọi không gian và thời gian.
Chúng ta tin rằng Chúa gọi từng người, thánh hóa và quy tụ chúng ta thành cộng đoàn, nên chúng ta đón nhận nhau trong cùng một đức tin khi sống trong cộng đoàn với nhau. Với nền tảng đức tin về cộng đoàn như thế, chúng ta có lý do thuyết phục để sẵn sàng tuân giữ các luật lệ cần có để giúp chúng ta trung thành với Chúa, sống linh đạo và cùng nhau thi hành sứ vụ chung.
Tại mục 4, số 41, Hiến Pháp Hiệp Hội Thánh Phao-lô chúng ta cũng chủ trương: “…Mọi thành viên không phân biệt giai cấp địa vị xã hội và sống với nhau như anh em ruột thịt trong gia đình, yêu thương nhau như tâm nguyện của Đức Ki-tô: ‘Lạy Cha, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, xin cho họ cũng ở trong Chúng Ta’ (Ga 17,21)”. Như vậy, khi coi cộng đoàn là một gia đình, mọi thành viên trong đó như là những người cha người mẹ và anh chị em, thì mọi người sẽ vui vẻ và hạnh phúc lo phận vụ của mình, tự như bề trên lo việc của người cha, quản lý mang lấy phận vụ người mẹ, và anh em mỗi người một việc để vun đắp cho gia đình cộng đoàn hạnh phúc và phát triển.
Chẳng riêng gì cộng đoàn tu trì, mà bất kỳ một tổ chức xã hội nào, cũng buộc phải có luật để giữ kỷ cương và giúp thăng tiến. Cái khác của luật xã hội và luật tu trì là, ngoài lý do tự nhiên và nhân bản mà luật nào cũng có, thì luật tu trì còn có lý do thiêng liêng làm động lực cho tu sĩ tuân giữ lề luật.
Lý do tự nhiên và nhân bản: Đời sống cộng đoàn tu trì diễn tả tương quan và thông dự, chia sẻ sự sống thiêng liêng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống thiêng liêng khởi đi từ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được mời gọi và qua lời khấn dòng, chúng ta được Đức Ki-tô liên kết với nhau thành một cộng đoàn, thành gia đình thiêng liêng. Các nguyên tắc, quy định thế nào, nhiều hay ít, lỏng lẻo hay chặt chẽ, chi tiết hay tổng quát, sẽ tùy tôn chỉ và mục đích của cộng đoàn ấy. Có những luật in thành văn bản, và cũng có những khoản luật như một quy định riêng, nhưng các thành viên trong cộng đoàn vẫn cần phải tuân giữ. Tóm lại, theo tự nhiên, luật lệ là cần thiết để có trật tự chung, duy trì cộng đoàn và công bằng với mọi người.
Lý do thiêng liêng: Cộng đoàn tu trì là công trình của Thiên Chúa, chính Chúa đã mời gọi và qui tụ chúng ta thành cộng đoàn. Như vậy cộng đoàn tu trì có đặc tính thiêng liêng, là một mầu nhiệm, là công trình của Chúa Thánh Thần, mỗi người chúng ta tham dự vào mầu nhiệm và cộng tác vào công trình này. Vì thế, các luật lệ trong cộng đoàn dòng tu cần thiết để giúp chúng ta có thể đạt được sự sống đời đời như chính Đức Giê-su đã nói: “Nếu anh muốn vào cõi sống thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19, 17). Trong tinh thần này, Cha Henri Denis Benoît (tổ phụ dòng Citeaux Thánh Gia) dặn: “Chúa chọn chúng ta vào dòng và ở đó ta lo giữ luật phép cho trọn mà nên thánh thiện một ngày một hơn”.
Chính việc tuân giữ lề luật thì lề luật cũng giữ tu sĩ và giúp tu sĩ sống trọn vẹn ơn gọi mà họ đã chọn. Việc tuân giữ kỷ luật giúp tu sĩ xây dựng đời sống của mình trong một khuôn khổ nề nếp vững chắc, an toàn: “Mình giữ luật, luật sẽ giữ mình.” Vì thế, không thể có một tu sĩ sống ngoài kỷ luật. Việc tuân giữ kỷ luật giúp tu sĩ sống đẹp lòng Chúa, thể hiện tình yêu đối với Chúa và trung thành với ơn gọi của mình. Tình yêu sẽ làm cho việc tuân giữ kỷ luật của tu sĩ trở nên có giá trị, có ý nghĩa và đẹp lòng Chúa. Thái độ tuân giữ kỷ luật như thế cũng khiến tu sĩ cảm thấy vui và hạnh phúc, chứ không phải thấy luật là gánh nặng. Chúng ta cũng không nên có thái độ xét đoán người khác khi họ chưa giữ kỷ luật tốt, nhưng hãy có sự cảm thông nâng đỡ để cùng giúp nhau giữ kỷ luật cách trọn hảo. Vì chính bản thân ta nhiều lúc cũng yếu đuối cần đến sự nâng đỡ của anh em. Thật vậy, khi chúng ta yêu mến và tuân giữ kỷ luật, chúng ta sẽ được chính Thiên Chúa yêu mến như lời Chúa nói: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho kẻ ấy” (Ga 14,21).
Điều đáng lên án hơn cả là những anh em sống đời sống cộng đoàn, nhưng không còn cảm thấy “khó coi”, khi anh em thì ra sức làm, còn mình thì hờ hững không thèm nhúng tay vào. Có những anh em ở nhà cộng đoàn, ăn cơm cộng đoàn, nhờ cộng đoàn mà có danh phận và được học hành, thậm chí là sức khỏe thể lý còn tốt hơn anh em, nhưng làm thì không cộng tác, còn nên gương xấu cho những anh em đang nhiệt huyết nhìn vào mà sinh nản chí.
3. Tuân giữ Hiến Pháp.
Vì cộng đoàn mang tính xã hội nên cộng đoàn nào cũng phải có thời khóa biểu và những quy định chung, giúp cho cơ cấu và nếp sống của cộng đoàn được hài hòa, trật tự. Chính vì thế mà bất cứ cộng đoàn tu trì nào cũng phải có Hiến Pháp để giúp giữ luật và sống linh đạo của dòng tu hay hay tu hội mình. “…Mọi thành viên khi sống cộng trong cộng đoàn phải có kỷ luật, có trật tự của cộng đoàn, tuân thủ Hiến Pháp và tinh thần của Hiệp Hội với tất cả lòng yêu mến theo đặc sủng của Vị Sáng Lập” (x. Hiến pháp SSP, số 42).
“Hiến pháp là con đường hướng tới sự trọn lành. Tất cả mọi thành viên chính thức đều phải tuân thủ Hiến pháp như một phương pháp giúp giúp sống trọn vẹn linh đạo và đạt được lý tưởng nên thánh trong đời sống thánh hiến” (Hiến pháp SSP số 120). Kỷ luật cộng đoàn giúp ta sống trong sự hiện diện của Chúa
Nhưng mỗi người trong cộng đoàn lại xuất thân từ những hoàn cảnh khác nhau, hình thành nên tính khí khác nhau, phát sinh những nhu cầu khác nhau. Nên để giữ được những quy định trong Hiến Pháp phải cần những yếu tố: Đón nhận hi sinh cách tự nguyện, sống có trách nhiệm, trung thành với lời cam kết, giữ các sinh hoạt chung và sống tình tương thân tương ái:
Tự nguyện: Chúa Giê-su kiện toàn lề luật là đem con người đến với lề luật với cả tinh thần yêu mến và tự nguyện tuân giữ, chứ không phải vì sợ hãi mà phải giữ. Tinh thần tu sĩ giữ mọi điều trong Hiến Pháp là vì yêu mến Chúa, yêu mến ơn gọi, yêu mến cộng đoàn, yêu mến bề trên và anh em, nên giữ cách tự nguyện hi sinh và vui vẻ, luật lúc đó trở nên nhẹ nhàng. Ngược lại, nếu không đón nhận hi sinh cách tự nguyện và tự do, việc cố gắng giữ các luật lệ chung cách máy móc, rất có thể làm cho chúng ta tìm an toàn trong lề luật, bị xói mòn trong những khuôn khổ, thói quen đều đặn của chương trình có sẵn, hoặc thụ động xơ cứng trong những quy định chung, làm mất đi những sáng kiến năng động trong dấn thân. Như, thế, dễ rơi vào thái độ giữ luật vì luật, giữ bên ngoài cách chỉnh chu, nhưng bên trong đầy căng thẳng, miễn cưỡng hoặc nín thở qua cầu mà thôi.
Trách nhiệm: Tu sĩ sống có trách nhiệm là biết chỗ đứng của mình, địa vị của mình, bổn phận của mình và công việc được giao cho mình. Tu sĩ lãnh lấy một sứ vụ, một công việc hay liên đới với nhau không chỉ là một bổn phận mà còn là một trách nhiệm, nên khi thi hành phải mang tinh thần trách nhiệm thì mới chu toàn đến nơi đến chốn được. Nếu tu sĩ không có trách nhiệm với bản thân và cộng đoàn, hoặc thường xuyên không giữ những quy định chung thì sự đổ vỡ trong đời sống cộng đoàn chắc chắn xảy ra, và cá nhân tu sĩ sẽ rơi vào tình trạng không có khả năng đón nhận nề nếp chung như một giá trị đỡ nâng bản thân. Lúc đó tu sĩ sống và giữ luật chỉ để đối phó với tình thế mà thôi.
Cam kết: Ba lời cam kết Vâng Phục, Khiết Tịnh và Khó Nghèo (x. Hiến pháp SSP số 28-35) mà tu sĩ khấn giữ không phải chỉ là lên một bậc hay qua một giai đoạn, mà là trung thành gìn giữ cam kết cách trường kỳ mỗi ngày và cả đời, giữ trong mọi hoàn cảnh không gian và thời gian. “Việc tuân giữ Hiến pháp sẽ đem lại cho họ một giá trị cao quý về đời sống thiêng liêng và đạo đức, cũng như trưởng thành nhân cách hơn; nhưng nếu không tuân giữ và thi hành thì việc đó chưa thành tội, tuy nhiên, nếu vì khinh dể, có ác ý hoặc lơ là và sinh gương mù, gương xấu, họ có thể dẫn đến nguy cơ phạm tội do lỗi điều mình đã tự nguyện cam kết” (Hiến pháp SSP số 121).
Đời sống chung: “Để nuôi dưỡng tình hiệp thông anh em trong cộng đoàn, yếu tố đầu tiên là mọi thành viên phải kính trọng và tín nhiệm lẫn nhau. Chuyên chăm luyện tập, trau dồi những đức tính nhân bản: tinh thần hiểu biết, kính trọng, cởi mở, kiềm chế, chân thành, lịch thiệp, khôi hài, chia sẻ, đơn sơ, hồn nhiên, vui vẻ, liên đới và đồng trách nhiệm, thành tâm chấp nhận kỷ luật của cộng đoàn chứ không theo bề ngoài” (Hiến pháp SSP mục 4, số 41). Tu dòng mà không sống chung được thì là chọn nhầm ơn gọi. Thật vậy, đời sống chung buộc phải tuân giữ: Sống kính trên nhường dưới, lễ phép xưng hô, đi thưa về trình – phép tắc xin trình hẳn hoi, giờ giấc rõ ràng, giờ nào việc nấy trong việc tham dự sinh hoạt chung từ phụng vụ đến ăn uống ngủ nghỉ và làm việc chung, mỗi người một việc cần phải chu toàn trong sự vâng phục và yêu mến. Thế nhưng, ít nhiều sống chung nhưng ít có tình hiệp thông huynh đệ thực sự trong những khác biệt, nên chúng ta có thể dùng luật để đánh giá, xét đoán, phê bình, chỉ trích lẫn nhau. Khi đó luật trở nên những bức tường làm xa cách các thành viên trong cộng đoàn.
Tương quan: Hiến pháp SSP số 28§4, trích dẫn Tông huấn ĐSTH: “Trong đời sống huynh đệ được Thánh Thần hướng dẫn, mỗi thành viên trân trọng đối thoại với những người khác để tìm ra ý Chúa Cha, đồng thời tất cả mỗi người đều nhận ra nơi vị phụ trách tình phụ tử của Thiên Chúa, Thiên Chúa trao ban vào việc biện phân và hiệp thông (x. VC 92).” Các thành viên muốn sống được tương quan với nhau cách hài hòa và viên mãn cần phải biết: Yêu thương mà không mong đáp đền, yêu thương công bằng không phân biệt và yêu thương cả những ai mình khó yêu hoặc họ ghét mình, không xét đoán anh em và tha thứ mãi mãi. Cụ thể, Hiến Pháp chúng ta minh định: Sống tương quan trong hiệp hội cần một tấm lòng, một linh hồn (số 36); mang gánh nặng cho nhau và kính trọng lẫn nhau (số 37) lấy tinh thần đức ái làm nền tảng xây dựng đời sống chung (số 38); hiệp nhất trong Thánh Thể (số 39); chia sẻ những khó khăn và khuyến khích nhau trong đức tin (số 40); hiệp nhất không phân biệt địa vị – họ hàng – hoàn cảnh – cục bộ – địa phương (số 41); kính trọng và tín nhiệm lẫn nhau (số 42).
Sau Hiến pháp, những nội quy của Tu hội và các quyết định công nghị của tu hội cũng buộc thành viên trong tu hội phải tuân giữ.
BÀI VII. KỶ LUẬT VÀ VÂNG PHỤC
Đọc Lời Chúa: Hr 5,1-9
Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Khi cha cố Louis Bertrand Tổng Phụ Trách chọn hai chủ đề chính cho kỳ tĩnh tâm này là Vâng Phục và Kỷ Luật, cũng không biết là vô tình hay hữu ý của ngài mà con thấy hai đề tai này tương quan mật thiết với nhau. Vì thế khi soạn bài về Kỷ Luật, con dành riêng một bài nói về Kỷ Luật và Vâng Phục.
Vâng phục là một hành vi tự nguyện. Chúng ta tự nguyện chọn vào bậc sống này chứ không ai ép buộc, nên cũng phải “nhập gia tùy tục” mà khép mình theo những gì mà luật hiệp hội đã đưa ra.
Người sống đời thánh hiến, việc sống đời kết hiệp với Thiên Chúa và ra đi làm công tác tông đồ cho tha nhân, việc học hành nghiên cứu hay giảng dạy, việc thăng tiến đời sống cộng đoàn hay phát triển xã hội con người… hẳn nhiên không phải là những yếu tố tách rời, nhưng được liên kết mật thiết với nhau. Đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, việc tuân thủ kỷ luật tu trì đều hướng về sứ mạng, chứ không chỉ là việc ở trong nhà. Cách riêng việc sống đời vâng phục bày tỏ một nét đẹp đặc biệt: họa lại cách sinh động con người Đức Ki-tô “là Đấng vừa được thánh hiến cho vinh quang của Chúa Cha, vừa được sai đến với thế gian nhằm cứu độ anh chị em mình” (Vita Consecrata, số 72), đồng thời vâng phục cũng đặt người tông đồ trong tương quan mật thiết với toàn thể Giáo Hội. Như vậy, giá trị của đời sống tông đồ không chỉ nằm ở những việc chúng ta làm được, nhưng khi việc hiến dâng của chúng ta cho Thiên Chúa càng đi vào nội tâm, lối sống cộng đoàn của chúng ta càng đậm tình huynh đệ thì đời tu càng có giá trị tông đồ (x. Duy Linh. OP).
Sự vâng lời giữ gìn bạn an toàn và trao cho bạn niềm hạnh phúc. Ai không quan tâm đến việc sống vâng lời thì người ấy chỉ làm điều họ thích và có thể sẽ làm tổn hại đến chính họ và người khác. Ví dụ như mọi người đều lái xe nhanh theo ý họ muốn thì nhiều người sẽ bị thương hoặc thậm chí thiệt mạng. Nếu bạn đi xe trái đường, bạn cũng dễ có thể sẽ bị tai nạn. Như vậy, thế giới sẽ đầy rẫy những nguy hiểm. Khi sự vâng lời vắng mặt thì tổn thương và mất mát sẽ xảy đến.
Như vậy, có thể nói, kỷ luật của mọi kỷ luật, và là căn nguyên của việc giữ kỷ luật chính là vâng lời. Đóng vai trò quan trọng trong việc giữ kỷ luật chính là sống tốt sự vâng lời. Vâng lời bao gồm: Vâng lời bề trên và các vị phụ trách, anh em vâng lời nhau và những phương cách để thực hiện đức vâng lời.
1. Vâng lời Bề trên và những người có trách nhiệm.
Bên cạnh Hiến Pháp và cộng đoàn như là trung gian để tìm biết thánh ý Chúa còn có sự phục vụ (hay thừa tác vụ) của người lãnh đạo và những người phụ tá cùng chia sẻ với ngài trách vụ đó. Người lãnh đạo có một quyền bính, một quyền lực vốn luôn là một việc phục vụ cộng đoàn, nghĩa là một việc làm hướng đến làm cho Chúa Ki-tô được hiển trị trong cộng đoàn. Đó là hành động “thiêng liêng” của ngài, bởi vì như thánh Phan-xi-cô As-si-si-ô đã nói: “chính Chúa Thánh Thần là vị tổng phụ trách đích thực của dòng”.. Chỉ những ai cầm quyền có và dưỡng nuôi một đời sống thiêng liêng mới biết thăng tiến sự sống ấy nơi những người được trao phó thuộc quyền mình. Hơn thế nữa, bề trên hay vị tổng phụ trách trong cộng đoàn là một khí cụ có đặc quyền giải thích lề luật theo tinh thần tiên tri mời gọi người ta giải thoát mình khỏi tinh thần vụ luật (luật Dòng hay luật Phúc Âm) lạnh lùng, tầm thường và hẹp hòi (x. ĐGM Louis Nguyễn Anh Tuấn, WHĐ 2016).
Về phía bề trên: Quyền bính cơ chế không bao giờ đối nghịch cùng quyền bính thiêng liêng, bởi lẽ nếu không ủng hộ hành động của Thần Khí, quyền bính sẽ không còn là quyền bính nữa. Người cầm quyền là cơ hội, ký ức, bảng chỉ dẫn cho người ta sống đức vâng phục, vì vâng phục luôn là vâng phục Thiên Chúa. Người cầm quyền phải học trước hết vâng theo việc của Thiên Chúa làm nơi từng anh em mình, và từ đó xác nhận và khích lệ họ ngay cả khi làm với cung cách phê bình để họ có thể đáp lại ý muốn của Thiên Chúa. Điều 618 của Bộ Giáo Luật nhắc nhở các bề trên hãy hành xử quyền bính trong tinh thần phục vụ; ngoan ngoãn với ý Chúa, xúc tiến sự vâng phục tự nguyện, vui lòng lắng nghe người thuộc quyền. Điều 619 thêm rằng các bề trên hãy tìm cách xây dựng trong Đức Ki-tô một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Theo quan điểm của thánh I-nha-xi-ô Lo-yo-la, hầu hết các văn kiện Tòa thánh nhấn mạnh sự suy phục ý chí (thí dụ Sắc Lệnh Công Đồng Vaticanô II về Dòng tu số 14). Nền tảng thần học của nó là Giáo hội phẩm trật. Mọi quyền bính từ trên ban xuống: từ Đức Ki-tô thông qua các tông đồ, chuyền sang Giáo hoàng chảy xuống bề trên. Vì thế, ý bề trên được coi là ý Chúa.
Đối với các thành viên: Điều đầu tiên giúp tu sĩ có thể dễ dàng hiểu được vì sao phải vâng phục trong dòng tu là vì nếu không có vâng phục một vị bề trên hợp pháp, cuộc sống trong cộng đoàn chắc chắn sẽ có nhiều xáo trộn. Sống trong một tập thể mà ai cũng muốn làm theo ý riêng của mình thì sẽ chẳng có trật tự gì. Đó sẽ không còn là đời sống cộng đoàn nữa. Sự vâng phục một bề trên giúp quy hướng mọi người về một mối, giúp tránh mọi nguy cơ chia rẽ và giúp đảm bảo ơn gọi của mỗi người. Sự vâng lời phải dần dần đào tạo cho tu sĩ biết từ bỏ ý riêng; sự vâng lời được đặt gần với đức tin: tu sĩ phải tập nhìn thấy Chúa hiện diện nơi bề trên: “Lời khuyên Phúc Âm tuân phục được đảm nhận với tinh thần đức tin và đức mến, theo gương Đức Ki-tô tuân phục cho đến chết, buộc phải quyết chí tuân phục các bề trên hợp pháp đại diện Thiên Chúa, khi các ngài truyền lệnh theo Hiến Pháp riêng” (GL 601). Tu sĩ phải vâng phục với tinh thần của đức tin và đức mến. Đức tin trong sự vâng phục thể hiện ở chỗ tin rằng vị bề trên hợp pháp là đại diện của Chúa, dù rằng người ấy có nhiều khiếm khuyết, bất toàn, thậm chí là thua kém mình mọi đàng. Tu sĩ phải tỏ lòng kính trọng bề trên, yêu mến bề trên như yêu mến Chúa vì chỉ khi yêu mến, họ mới có thể vâng phục được.
Tu sĩ cũng vâng phục theo như mẫu gương Giê-su vâng phục Chúa Cha trong mọi chuyện và vâng phục đến nỗi sẵn sàng chấp nhận chịu chết. Khi nói đến điều này, ta liên tưởng đến sự vâng phục hệt như một của lễ dâng lên Chúa. Vâng phục không chỉ là chuyện cúi đầu làm theo răm rắp những gì bề trên nói như một người không có ý thức, nhưng còn là một sự từ bỏ, một nỗ lực hãm dẹp ý riêng của bản thân. Nó trở thành của lễ là vì thế (x. Pr. Lê Hoàng Nam, SJ).
Khác biệt giữa sự vâng phục trong đời tu và sự vâng phục ngoài đời thường. Các nhân viên phải nghe theo phán quyết của sếp mình, nhưng chẳng có gì gọi là đại diện Chúa hay của lễ dâng lên Chúa ở đây cả. Họ phải làm theo lệnh sếp chỉ vì miếng cơm manh áo, vì lợi ích của công ty mà thôi. Cũng chẳng phải vì nghe lời sếp mà các nhân viên trở nên hoàn thiện hơn, tốt lành hơn, dễ nên thánh hơn. Còn sự vâng phục trong đời tu là một sự chấp nhận hạ mình, để mình lệ thuộc vào người khác, hy sinh quyền tự quyết của mình vì tin rằng đó là điều Chúa muốn và Chúa mặc khải ý của Người qua sự khôn ngoan của bề trên. Các tu sĩ từ bỏ ý riêng của mình để nên giống Đức Ki-tô hơn. Chính qua sự vâng phục mà tu sĩ thấy mình được liên kết với Chúa.
Vâng phục là dâng Chúa tự do chứ không phải xoá bỏ nó;
vâng phục là chân nhận quyền tối cao của Thiên Chúa,
vâng phục là dâng mình cho Thiên Chúa cách triệt để và không dè xẻn.
Vâng phục là thắng chính mình,
Vâng phục là từ bỏ hết để Chúa chiếm trọn con người mình.
Vâng phục là tỏ ra mềm mại trước Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động qua cộng đoàn và bề trên, cũng là cách chia sẻ trách nhiệm với bề trên và cộng đoàn.
Những vị phụ trách cộng tác với bề trên: Dựa theo Sắc Lệnh Canh Tân Đời Tu của công đồng Vaticano II, số 14, Bộ Giáo Luật cũng đòi thiết lập những cơ quan nhờ đó các phần tử có thể tham gia vào việc cai trị trong tu hội (GL 632-633). Những vị phụ trách dưới bề trên là những vị chia sẻ trách nhiệm, cũng hành xử trong phạm vi thuộc quyền mình theo những đòi hỏi dành cho bề trên. Những vị phụ trách chỉ có quyền trên các thành viên thuộc quyền mình (Phụ trách Kinh viện, Phụ trách Tập viện, đứng đầu một cơ sở, trưởng một nhóm…). Những vị phụ trách cộng tác trực tiếp với bề trên trong việc nâng đỡ và góp ý với bất kỳ thành viên nào để giúp họ giữ luật và phát triển cộng đoàn.
Sau việc vâng lời bề trên và vâng theo các quyết định được đưa ra trong các hội nghị của tu hội, các thành viên không bị buộc phải vâng lời những vị phụ trách không coi sóc mình, nhưng cũng được mời gọi biết lắng nghe những góp ý chân thành từ các vị đứng đầu các nhóm khác.
2. Anh em vâng lời nhau.
Thánh Phao-lô tổ phụ của hiệp hội chúng ta dạy: “Anh em hãy tùng phục lẫn nhau trong niềm kính sợ Đức Ki-tô” (Ep 5,21). Tùng phục có nghĩa là có người trên là người anh em tôi và có người dưới là chính tôi đây. Bình thường thì dễ vâng lời người anh em hơn trong sự thật, bởi lẽ đối với người lãnh đạo chúng ta có thể vâng lời vì sợ, vì lệ thuộc, vì chủ nghĩa cơ hội, còn đối với người khác thì không! Họ không có quyền hành nào khác ngoài sự gần gũi của người ở bên cạnh như người anh em.
Vâng phục nhau trong đời sống cộng đoàn là sống điều răn mới Chúa Giê-su truyền lại cho các môn đệ Người: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Tình huynh đệ là yếu tố cốt yếu của đời sống cộng đoàn và toàn thể sự phong nhiêu của đời sống cộng đoàn phụ thuộc phẩm chất của đời sống huynh đệ. Quả thật, vâng phục nhau là điều rất vất vả và khó khăn bởi vì nó không chỉ là một thực hành tu đức, một kỷ luật để sống chung cùng nhau, nhưng là một sự cùng nhau tìm kiếm thánh ý Chúa, bằng cách đón nhận tha nhân vốn có những khác biệt với tôi, và cũng có khả năng nhận ra thánh ý Chúa và thực hiện thánh ý đó. Cần phải khẳng định lại cách quyết liệt điều này: vâng phục không chỉ là vâng lời bề trên, bởi lẽ trên hết và trước hết phải có một đức vâng phục lẫn nhau giữa các anh em.
Vâng phục còn là mảnh đất trên đó hạt giống đồng trách nhiệm trổ sinh và nảy nở. Đó là mọi thành viên cùng thực thi trách nhiệm, ước muốn thi hành trách nhiệm trong tinh thần hiệp thông và là khả năng đáp lại bằng những quyết định và hành động trong sự liên đới với nhau. Dự phóng của một cộng đoàn là thuộc về trách nhiệm chung của toàn thể các thành viên. Trách nhiệm chung thì ngược lại với trách nhiệm cá nhân vốn chỉ là trách nhiệm riêng của một người. Đáp lại ơn gọi của mình, những người thánh hiến quyết định rằng trong cuộc sống của mình họ sẽ không lấy những quyết định quan trọng một mình, nhưng luôn luôn làm trong tinh thần hiệp thông với những anh em khác, những người cùng họ sống giao ước đã ký kết.
Tu sĩ cần nắm được giá trị của vâng lời là: Giá trị hiến tế, giá trị nhân bản, giá trị đối thần (tin, cậy, mến) và giá trị lợi ích chung:
Giá trị hiến tế: Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, khi khấn vâng lời, tu sĩ dâng cho Thiên Chúa điều cao quý nhất của con người, đó là ý chí tự do, quyền định đoạt về đời sống (II-II, q.186,7). Cách riêng sự vâng lời không chỉ họa lại gương khiêm tốn vâng phục của Đức Ki-tô, nhưng còn thông dự vào sự hiến dâng của Người nữa: “Cha không nhận lễ toàn thiêu của chiên bò, thì này đây con xin đến để làm theo ý Cha” (Hr 10,9), tu sĩ qua hy lễ vâng phục cũng đóng góp vào sự cứu chuộc thế giới.
Giá trị nhân bản: Sự vâng lời mang giá trị giải thoát con người khỏi sự nô lệ của chính bản ngã. Thực vậy, ai cũng mang trong mình khuynh hướng đặt mình làm trung tâm vũ trụ. Đối lại với khuynh hướng ấy, sự vâng lời nói lên thái độ phục thiện, khi nhìn nhận rằng chân lý không nằm trong tay của mình; con người cần thoát ra bản ngã của mình để đi tìm chân lý khách thể. Con người chấp nhận tìm hiểu, học hỏi dưới sự hướng dẫn của người khác. Hiểu như vậy, ta thấy sự vâng lời giúp ta trở thành con người tự do hơn, theo nghĩa là thoát khỏi nô lệ của bản ngã chủ quan.
Giá trị đối thần: Sự vâng lời của tu sĩ cần được đặt trong nhãn giới của đức tin, cậy, mến, nghĩa là với những động lực siêu nhiên, chứ không phải chỉ theo thị hiếu tình cảm. Sự vâng lời cũng liên hệ tới hai lời khuyên khiết tịnh và khó nghèo, xét vì nó nằm trong kế hoạch tổng quát của việc từ bỏ mình, dâng hiến và yêu mến.
Giá trị lợi ích chung: Sự vâng lời cần thiết để kiến tạo cộng đoàn. Đặt sự vâng lời trong lợi ích chung của cộng đoàn, là hi sinh những tìm kiếm cá nhân, từ bỏ cái tôi riêng để ý chung của cộng đoàn được thực hiện nhanh chóng. Mọi thành viên tất cả cùng chung một mục đích là làm cho cộng đoàn hiệp nhất, thánh thiện và phát triển. Vâng phục nhau không chỉ theo tiêu chuẩn của quyền lợi và bổn phận hoặc chỉ theo những tiêu chuẩn của công bằng, bởi vì đôi khi cũng cần phải biết chịu đựng một chút sự bất công, biết hạ mình, biết chờ đợi trong kiên nhẫn chân lý rồi một ngày sẽ lộ hiện và đúng lúc. Thiếu khiêm tốn, tức là không chấp nhận mình có lúc nên hèn kém, thì cũng khó có thể sống đức vâng phục Ki-tô giáo được.
Vâng phục giữa những thành viên trong cộng đoàn với nhau trước hết có nghĩa là chấp nhận họ như thực tại chính họ là anh em quà tặng của Chúa cho tôi. Ta không chọn họ trước rồi mới yêu thương họ, mà ngược lại ta chọn yêu thương họ như món quà của Chúa ban trao trước khi hiểu biết và lựa chọn họ! Tha nhân, nếu ta không coi họ như ân huệ Chúa ban có thể trở thành… hỏa ngục (Jean-Paul Sartre).Như thế, vâng phục là hết sức kiên nhẫn mang chịu lấy những yếu đuối về thể lý và tinh thần, những khiếm khuyết của người khác. Vâng phục để sống với tha nhân mà không vì lụy tình cảm nhưng trong sự tự do của một lòng mến yêu thanh khiết. Vâng phục để vẫn phục vụ họ nhất là khi họ mất sức khỏe, yếu sức, thiếu tài năng hoặc đang sống trong tội lỗi, bởi thế họ cần được phục vụ từ những tấm lòng từ bi và bác ái huynh đệ không mệt mỏi. Tha nhân là “một người anh em mà Chúa Ki-tô đã chết cho họ” (1Cr 8,12). Mang lấy tội lỗi của họ là dấu chỉ của người đã có được tầm nhìn của Chúa Ki-tô, cái nhìn cảm thương (x. ĐGM Louis Nguyễn Anh Tuấn, WHĐ 2016).
3. Những phương thế giúp tu sĩ vâng phục.
Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn phân tích: Để vâng lời tu sĩ cần biết lắng nghe, biết đối thoại, biết điều hành và quyết định, biết khuyên răn, khiển trách và sửa lỗi.
Biết lắng nghe:
Để thực hành vâng phục ta phải biết lắng nghe nhau: muốn nghe nhau, biết dành thời gian tìm hiểu những nhu cầu của nhau, cố tìm hiểu để biết thực chất sâu xa của người anh em hơn, những gì khiến anh em vui mừng hay làm anh em đau khổ. Nếu thiếu một sự hiểu biết tối thiểu này về anh em, sẽ không thể có đời sống huynh đệ và rốt cuộc có thể tình trạng sẽ trở nên tệ hơn dù ta không muốn. Mỗi người anh em là trung gian cho Chúa hiện diện và tỏ lộ ý muốn của Người.
Về phía bề trên và những vị hữu trách: Để thực hiện việc phục vụ của mình, vị phụ trách trước hết ngoài việc lắng nghe tiếng Chúa, cũng phải biết lắng nghe không mệt mỏi các thành viên. Lắng nghe là biết đón nhận anh em bằng cách tự đặt mình sẵn sàng phục vụ họ theo các nhu cầu của họ. Quả thật, trong anh em luôn có ai đó cảm thấy cô độc, ai đó cần được quan tâm, ai đó cần được giúp đỡ để bộc bạch, để nói chuyện và cảm thấy được lắng nghe và được chăm sóc. Người nào không biết lắng nghe anh em mình là kẻ nhìn thấy được thì cũng không biết lắng nghe Thiên Chúa là Đấng không thấy được. Lắng nghe anh em với một sự “đồng cảm” (không có nghĩa là đồng ý). Một quyền bính là phải giúp cho người khác được phát triển, trưởng thành hơn, tạo không gian cho người đó và giúp họ tiến bước trong tự do và trong yêu thương. Chăm sóc ân cần, quan tâm lo lắng, gần gũi chia sẻ với anh em bảo đảm cho ta không thực thi quyền bính cách độc đoán và chuyên chế, tránh thao túng hay điều khiển cách độc tài con người hoặc lương tri của người ta. Không cao ngạo, kiêu căng, không khinh thường người khác.
Về phía các thành viên: Lắng nghe người phụ trách và lắng nghe nhau, giúp tìm được tiếng nói chung và biết “gạn đục hơi trong” những mệnh lệnh, những công việc hay những phương pháp giúp cá nhân hay cộng đoàn. Lắng nghe mới giúp hiểu biết người hữu trách và anh em như thế nào. Lắng nghe giúp tìm được ý Chúa trong lệnh truyền, trong công việc và trong tha nhân. Khi lắng nghe nhau, thì cũng dễ sẵn sàng làm điều mà anh em nhờ mình cầu nguyện giúp, nói giúp và làm giúp. Vâng lời nhau không phải là mình mất tự do hoặc làm mình quá bận rộn, mà là một sự hy sinh tự nguyện trong đức ái muốn được quên mình vì anh em. Lắng nghe nhau còn là noi gương sống tự hạ của Đức Ki-tô.
Lắng nghe cho thấu đáo, để đi tới chỗ “vâng”- “thuận” là điều rất quan trọng. Vì chân lý muôn mặt như hạt ngọc kim cương, sự phải quấy là tuỳ trình độ, tùy thời gian, tùy hoàn cảnh, tùy cái nhìn, do đó chỉ có thể khơi gợi, so sánh, phản ánh nó trong hoàn cảnh thực, chứ không đưa ra một khuôn mẫu của mình hay của ai đó để phê phán và áp đặt. Không lắng nghe thì anh có những suy nghĩ và lập trường riệng, anh cố biện bác, thuyết phục để chứng minh lập trường của mình là đúng, và tôi cũng vậy. Cuối cùng chỉ còn lại hai mảnh của hai khuôn mẫu mà người nọ cố tìm cách áp đặt cho người kia, còn chân lý thì vắng bóng.
Biết đối thoại:
Đối thoại là nghệ thuật giáo hóa bằng lời uy lực và bằng hành động của chính mình, bằng cách sống của mình.
Bề trên hay người phụ trách cần biết đối thoại để biết được tinh thần, khả năng, sức khỏe của anh em khi mình truyền dạy điều gì hay bài sai việc gì. Khi đối thoại phải hoàn toàn tự do trước mọi thúc đẩy của Chúa, gạt bỏ hết mọi định kiến cá nhân, không bị điều gì ràng buộc, không dính bén vào một lôi kéo nào, như bàn cân không nghiêng về bên trái hay bên phải. Đó là một sự mở lòng hoàn toàn với một thái độ sẵn sàng đón nhận. Trong sự đối thoại, cả hai bên đều được mời gọi để mang lấy thái độ này, nếu không, mọi cái sẽ trở nên vô ích. Sự đối thoại giúp bề dưới dễ dàng vâng phục hơn, và vâng phục trong sự trưởng thành, trách nhiệm và tự nguyện hơn. Nó cũng giúp bề trên tránh thái độ độc tài, chủ quan nhưng trở nên sáng suốt hơn trong quyết định của mình. Nó cũng là cơ hội để hai bên hiểu được nhau hơn.
Cha Pr. Lê Hoàng Nam, SJ viết: Để có một sự đồng tâm nhất trí giữa bề trên và bề dưới, đối thoại là điều rất cần thiết. Đó là một cuộc trò chuyện giữa hai bên về cùng một chủ đề nào đó, với dụng ý sẽ tìm ra một giải pháp chung tốt nhất cho tất cả. Một bề trên không bao giờ nghe ý kiến của bề dưới thì dù có đưa ra quyết định đúng trong công việc cũng có nguy cơ không phù hợp với bề dưới. Một bề dưới không bao giờ chia sẻ tâm tư ước nguyện với bề trên thì khó lòng để bề trên hiểu mình, và khi nhận được một quyết định nào đó không ưng ý, họ dễ cáu gắt và bất mãn. Đối thoại trước hết giúp hai bên được lắng nghe nhau, bày tỏ suy nghĩ cho nhau, cùng nhau vạch ra những đường hướng, những điểm thuận lợi và không thuận lợi, từ đó đi đến sự hiểu nhau, đồng tâm nhất trí.
Trong cuộc nói chuyện, bề trên và bề dưới phải ý thức rằng đây là một buổi cầu nguyện, là lúc mà hai người “tụ họp” nhân danh Thầy Giê-su, chứ không đơn thuần chỉ là một kiểu trao đổi vu vơ, giải trí, hay chất vấn, lấy thông tin… Muốn vậy, giữa hai bên phải có sự tin tưởng dành cho nhau, một sự gần gũi trong bầu khí anh chị em với nhau. Cả hai đều phải mang thiện chí là muốn biết và thực thi ý Chúa, chứ không khăng khăng cố chấp ở lại trong ý riêng của mình. Nếu như mỗi bên đã có quyết định của riêng mình rồi, họ đến gặp nhau chỉ để thuyết phục người kia làm theo ý mình, thì đó không còn là đối thoại nữa. Đó chỉ là một kiểu đàm phán theo kiểu hợp đồng mà thôi.
Để cuộc đối thoại được diễn ra tốt đẹp, bề trên và bề dưới đều cần Thần Khí soi dẫn. Khi nhắc đến Thần Khí, ta nghĩ đến sự thiện chí, sự mở lòng, sự sẵn sàng đón nhận mọi khả thể mới có thể xảy đến. Ta cũng nghĩ đến những sáng kiến, những ý tưởng hay mà có khi cả hai người chưa hề nghĩ ra trước đó. Ta nghĩ đến mọi điều tốt đẹp mà Chúa sẽ gửi đến cho hai bên, vừa giúp họ có thêm ánh sáng để nhận định, vừa ban thêm sức giúp họ can đảm đón nhận điều được mời gọi và chu toàn nó trong sự nhiệt thành hăng hái. Có đôi khi, bề trên phải đối thoại với những bề dưới vốn là người không được xuất sắc cho lắm và luôn có những suy nghĩ rất “lạ đời”. Nhưng bề trên không nên tỏ ra khinh thường để rồi không để ý, hay tỏ ý chê trách, bác bỏ. Bề trên cần có sự kiên nhẫn với họ, lắng nghe, rồi từ từ giúp họ nhận ra những sai sót trong suy nghĩ của mình một cách khôn ngoan mà không làm họ tổn thương.
Sự đối thoại cũng cần một sự tự do, kẻ nói người nghe và sát thực tế. Cả hai đều được mời gọi để chia sẻ suy nghĩ của mình. Và khi người này nói thì người kia phải lắng nghe, chứ không phải giành nhau nói, hay chỉ ngồi đó mỉm cười. Bề trên phải tạo ra một bầu không khí thân thiện để bề dưới không cảm thấy sợ sệt, hay bị áp lực đến độ không dám chia sẻ. Nên nhớ, đây không phải là một buổi “hỏi cung”, nên phải tránh mọi kiểu nghiêm nghị, răn đe, doạ nạt. Nội dung của cuộc đối thoại phải sát thực tế và đi thẳng vào vấn đề cần trao đổi. Không nên mất thời giờ để nói về những chuyện tưởng tượng nào đó, hay của ai đó, chẳng có liên can gì đến chuyện của mình. Bề trên phải cảnh giác, không để cho cuộc trò chuyện bị lạc đề, không có điểm nhấn, và chẳng sinh ích lợi gì.
Đối thoại là cần thiết, nhưng cũng phải lưu ý rằng sau đó quyền quyết định vẫn thuộc về bề trên. Nếu cả hai cùng tìm ra được sự đồng thuận và giải pháp tốt nhất thì tuyệt vời. Nhưng giả như sau khi nói chuyện, mỗi bên vẫn giữ nguyên ý kiến của riêng mình thì bề trên là người có tiếng nói cuối cùng. Sự vâng phục thể hiện ở chỗ: khi cuộc đối thoại diễn ra, mình có quyền chia sẻ những gì mình muốn, nhưng khi bề trên đã quyết định rồi thì mọi chuyện chấm dứt, bề dưới không nên tỏ ra khó chịu, gặp ai cũng càm ràm, đòi gặp người này người kia để tiếp tục nói chuyện, đặc biệt là không được “bàn ra”. Bề dưới phải tin rằng quyết định của bề trên sau cuộc đối thoại là ý Chúa, nên nếu quyết định ấy đối nghịch với ý mình thì mình phải cố gắng từ bỏ ý riêng để hoà quyện ý mình với Chúa, coi quyết định của bề trên là điều mà mình thật sự muốn làm (x. Pr. Lê Hoàng Nam, SJ).
Biết điều hành và quyết định (phần dành cho các vị phụ trách):
Người phụ trách cũng là người cầm quyền phải chỉ huy và ra quyết định lựa chọn và yêu cầu những người dưới quyền phải vâng phục. Hẳn nhiên, đầu tiên người phụ trách xin tư vấn đồng thời luôn lắng nghe anh em, và sau khi đã cầu nguyện, kêu cầu Chúa Thánh Thần và xem xét cẩn thận để không có những lý do ích kỷ hoặc đam mê tăm tối nào đó chi phối, ngài mới đưa ra quyết định. Quyết định sẽ được kiểm nghiệm trong thời gian, được kiểm tra qua việc thi hành và kết quả phát sinh, có thể sẽ được xét lại và điều chỉnh, nhưng chỉ khi thật xác quyết. Có khi để cho cộng đoàn ở trong tình trạng mơ hồ thiếu nhất quyết có thể là một điều còn tồi tệ hơn là có một quyết định sai lầm hoặc không phù hợp. Quyết định của vị lãnh đạo không phải luôn luôn là kết quả của đa số trong hội đồng. Có lúc người phụ trách có thể ngăn lại một quyết định chung của cộng đoàn, lúc khác vị ấy có thể đảm lấy trách nhiệm đưa ra một quyết định khác. Khi ấy, ngài sẽ phải giải thích lý do trước cộng đoàn khiến ngài chọn lựa như thế, nhưng quyết định là nhiệm vụ của ngài.
Còn chỉ huy là một nghệ thuật có ý nghĩa là muốn ủy thác, giao phó, trao phó một nhiệm vụ. Đây là một nghệ thuật biết đặt tin tưởng vào người khác hơn là sự truyền lệnh, muốn nói với họ rằng “thầy có thể hoàn tất nhiệm vụ này, một nhiệm vụ hợp với Tin mừng và vì nhu cầu của cộng đoàn”. Lệnh truyền phải luôn là một vang âm của Tin Mừng, và hơn nữa phải phù hợp với người đảm nhận, thích ứng với các khuyết điểm, ưu điểm, khả năng của người ấy.
Biết khuyên răn, khiển trách, sửa lỗi (dành cho vị hữu trách):
Người phụ trách phải biết giáo huấn bằng lời nói nhất là bằng gương sáng. Nghệ thuật giáo hóa anh em chị em mình là khả năng làm dấu chỉ đường cho họ đến với Chúa Ki-tô, với Phúc Âm và với Luật dòng. Người đứng đầu cộng đoàn, bởi chính địa vị của mình, thực ra luôn là đối tượng cho mọi người nhìn lên, mong đợi, và họ luôn dạy dỗ, ngay cả khi không định như thế hay không ý thức mình làm thế. Người phụ trách biết mình phải thi hành một sứ vụ cam go là hướng dẫn các linh hồn và phục vụ con người. Cho nên, có khi phải dịu dàng với người này, nhưng biết khiển trách và thuyết phục người kia, tùy theo tính tình và nhận thức của từng người mà thích ứng.
Nhiệm vụ của người phụ trách còn là đôi khi nhắc nhở khuyên răn, khiển trách, sửa lỗi, như thánh Phaolô khuyên nhủ: “Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2Tm 4,2), “vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa” (Hr 13,17). Họ được đặt như người lính canh phòng trong cộng đoàn, nên phải tỉnh thức, phải nhân danh Chúa cảnh báo những ai phạm tội và nói với người ấy họ đang đi vào cõi chết. Người phụ trách phải yêu cầu và ủng hộ việc sửa lỗi huynh đệ (“anh em hãy dạy dỗ, khuyên bảo lẫn nhau” – Cl 3,16), giúp anh chị trong cộng đoàn trưởng thành sao cho họ “thừa hiểu biết, có khả năng khuyên bảo nhau” (Rm 15,14). Nếu việc sửa lỗi huynh đệ trong Chúa Ki-tô không tiến hành công khai trong cộng đoàn, thì trường hợp nào vị phụ trách hay người đứng đầu cộng đoàn cũng đều có nhiệm vụ ấy. Sửa lỗi nhau là dấu chỉ của tình bác ái, một tình bác ái tinh tế khôn ngoan, mang tính Phúc Âm và nhân văn, để nhắc nhở nhau về trách nhiệm và đặt trở lại trong tình hiệp thông với anh em (ĐGM Louis Nguyễn Anh Tuấn).
Và khi thực hành được những đòi hỏi của đức vâng lời như đã nói trên, thì đã hình thành lê một chân dung truyền giáo mà chúng ta sẽ bàn tới trong bài cuối:
BÀI VIII. GIỮ KỶ LUẬT KHI ĐI TRUYỀN GIÁO
Đọc Lời Chúa: Gr 1,4-10.17-19
Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” Nhưng tôi thưa: “Ôi! Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!” ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
Rồi ĐỨC CHÚA giơ tay chạm vào miệng tôi và phán: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng.” Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy trỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.
Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA- có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.”
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới họp tại Rô-ma ngày 7-28/10/2012 đã bàn về chủ đề “Tân Phúc Âm hóa để thông truyền đức tin Ki-tô giáo”. Có thể nói Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm vui Tin Mừng, ban hành ngày 24/11/2013, là hoa trái của Thượng Hội Đồng Giám Mục ấy đồng thời cũng là một sự suy tư riêng của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô về Tân Phúc Âm hóa. Một vấn đề mà tông huấn đề cập đặc biệt là canh tân Giáo Hội trong nỗ lực truyền giáo, trong đó có canh tân đời sống kỷ luật và làm sao đạt tới một nghệ thuật đồng hành Ki-tô giáo nhằm làm tăng trưởng đời sống Ki-tô hữu.
Đứng trước những thách đố và cám dỗ đối với người làm công tác mục vụ và truyền giáo, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã mời gọi mọi người hãy “mạnh dạn và sáng tạo trong việc suy xét lại các mục tiêu, cơ cấu, phong cách và phương pháp truyền giáo tại các cộng đoàn của mình”. Trong tiến trình “suy xét lại” đó, dường như Đức Thánh Cha thấy rõ tâm trạng e ngại và lo lắng của chúng ta nên mới “khuyến khích mọi người áp dụng các hướng dẫn trong văn kiện này một cách quảng đại và dũng cảm, không bị ức chế hay sợ hãi” (Evangelii Gaudium, số 33).
Dựa theo Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, chúng ta lần lượt tìm hiểu về đời sống kỷ luật dành cho anh em đi truyền giáo và cách thức để truyền giáo trong bối cảnh xã hội ngày hôm nay.
1. Đời sống kỷ luật của người truyền giáo.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô muốn người truyền giáo một sự đồng hành có sự khéo léo, uyển chuyển, kỹ năng sáng tạo, nhạy bén con tim, cách thức gợi lên cảm thụ về cái đẹp (thẩm mỹ, thánh thiện), phương thế kích thích tư duy, cảm xúc, niềm tin, hay ý tưởng nơi một người… “Nghệ thuật đồng hành dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác (xem Xh 3,5). Bước chân đồng hành này phải có nhịp đều và vững vàng, phản ánh thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của chúng ta, giúp chữa lành và khích lệ sự tăng trưởng trong đời sống Ki-tô giáo” (Evangelii Gaudium, số 42). Người truyền giáo biết dựa trên kinh nghiệm bản thân trong việc đồng hành với người khác, những người thành thạo trong các tiến trình đòi hỏi sự thận trọng, cảm thông, kiên nhẫn và ngoan ngoãn vâng nghe Chúa Thánh Thần (x. sđd số 43).
Điều cần có:
Kinh ngiệm cá nhân: Có thể nói kinh nghiệm cá nhân và sự hiểu biết là nền tảng cho sự đồng hành đạt tới thành công. Nhờ kinh nghiệm cá nhân giúp chúng ta dễ đặt mình vào hoàn cảnh với người khác, nâng đỡ, và sự mở lòng của chúng ta cho họ, sẽ dạy chúng ta biết kiên nhẫn và cảm thông với người khác, và tìm ra đúng con đường để chinh phục sự tin tưởng, sự mở lòng và thái độ sẵn sàng lớn lên. Sự hiểu biết không chỉ do lý trí học hỏi và tìm kiếm có được, mà còn do con tim nhạy bén trước những cuộc đời của người khác. Ngoài ra, “hiểu biết tính khí và tính tình con người sẽ giúp chúng ta bảo đảm không để cho đương sự sinh lòng kiêu ngạo và sống quá độc lập mỗi khi ngưỡng vọng những điều cao cả (tính nóng vội); hay tính tình dễ chịu không bị xuống cấp để trở thành nhẹ dạ và hời hợt (tính cầu toàn); hay thiên về đời sống nội tâm và cô độc một mình sẽ không biến chất thành thụ động và mau nản chí (tính u buồn); hoặc bền chí và điềm tĩnh không biến thành cẩu thả và hờ hững (tính lãnh đạm)” (x. Evangelii Gaudium, số 43-47).
Thận trọng, cảm thông và kiên nhẫn: Thận trọng nói lên sự cân nhắc, đắn đo, suy tính kỹ càng không máy móc để tránh hết sức những sai lầm hay những tổn thương khó sửa chữa vì liên quan đến tâm hồn của một con người. Cảm thông là hiểu biết những khó khăn của người khác như là của mình, biết chia sẻ tâm tư tình cảm một cách chân tình. Cảm thông để không phê phán, quở trách nặng lời người khác. Chẳng hạn khi sửa lỗi và giúp người khác lớn lên dựa trên việc nhìn nhận lỗi của mình (x. Mt 18,15), chúng ta không được phê phán về trách nhiệm và sự có tội của họ (x. Mt 7,1; Lc 6,37). Cảm thông giúp chúng ta học biết gặp gỡ người khác với thái độ đúng đắn, nghĩa là biết chấp nhận họ làm bạn đồng hành mà không miễn cưỡng. Kiên nhẫn là sự bền bỉ, lâu dài không thối chí nản lòng, dù mất nhiều thời giờ mà kết quả chẳng thấy hay không đáng kể gì, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu, thì cũng phải kiên nhẫn chờ đợi và chịu đựng và ai giỏi trong việc đồng hành thường không đầu hàng trước những thất bại hay những nỗi sợ hãi (x. sđd số 48-51).
Lắng nghe và tôn trọng: Lắng nghe và tôn trọng là bước đầu của sự đối thoại và là điều kiện trước tiên để đối thoại thành công. Đối thoại là một điều không thể thiếu trong tiến trình đồng hành. Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hãy đến với các thành phần xã hội để chia sẻ cuộc sống với mọi người, lắng nghe các mối quan tâm của họ. Lắng nghe là sự mở lòng để có được thái độ gần gũi mà thiếu nó thì không thể có sự gặp gỡ. Lắng nghe giúp chúng ta tìm ra cử chỉ và lời nói thích hợp để chứng tỏ chúng ta không chỉ là những khách qua đường (x. sđd số 53-55).
Vâng theo Thánh Thần hướng dẫn: Đi truyền giáo chúng ta phải lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần và vâng theo thánh ý đó chứ không phải ý riêng của ta. Thánh Thần sẽ thúc bách chúng ta đến với người khác không vì lợi ích cá nhân, tinh thần hay vật chất, mà vì yêu thương muốn người khác được thăng tiến và chú tâm coi người khác “hầu như là một với chúng ta”. Sự chú tâm yêu thương này là khởi đầu cho một sự quan tâm thực sự đối với nhân vị của họ, thúc đẩy chúng ta hoạt động để mưu cầu lợi ích cho họ… Tình yêu làm chúng ta thấy người khác dễ thương khiến chúng ta tự ý trao tặng họ một điều gì đó. Với con mắt đức tin, chúng ta có thể thấy ánh sáng mà Chúa Thánh Thần luôn luôn chiếu dọi giữa bóng tối, đồng thời không bao giờ quên rằng “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Đức tin của chúng ta được thách thức để biết rằng nước có thể biến thành rượu như thế nào và lúa mì có thể mọc giữa cỏ dại ra sao. Để chia sẻ tình thương nhiệm mầu của mình, Thiên Chúa ban cho toàn thể các tín hữu một bản năng đức tin – sensus fidei – là khả năng giúp họ phân định rõ cái gì thực sự là của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thần Khí ban cho Ki-tô hữu một sự đồng bản tính nào đó với các thực tại của Thiên Chúa, và một sự khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại ấy bằng trực giác, cả khi họ không có đủ phương tiện cần thiết để diễn tả nó một cách chính xác. Như vậy chúng ta cần lưu ý những đề nghị hay sáng kiến của giáo dân xét như đó là ơn đặc biệt Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ trong những hoàn cảnh đặc biệt (x. sđd số 56-58).
Để sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian cần sự hiệp nhất và thánh hiến: Hiệp nhất: Kinh nghiệm cho thấy linh mục tu sĩ nào không thân thiết với anh chị em cùng lý tưởng với mình, không gắn bó với Giáo Hội và với cộng đoàn của mình, thì linh mục tu sĩ ấy dễ sa ngã hơn, dễ dàng bị thế gian lôi cuốn. Thánh hiến: Ai đã trọn vẹn thuộc về Chúa thì cho dù người đó có sống giữa bao nguy hiểm quyến rũ của thế gian thì cũng không hề hấn gì. Ơn Chúa và tình yêu của Người giúp người ấy vượt thắng được những lôi kéo, cám dỗ của thế gian.
Điều cần tránh:
Thiết nghĩ, điều đầu tiên mà một người mang sứ vụ truyền giáo là phải giữ kỷ luật với chính mình để không thành phản chứng. Không ai cho cái mình không có, phải có Chúa trong mình thì mới đem Chúa đến cho người khác được, muốn đem Tin Mừng thì phải sống Tin Mừng trước, muốn thay đổi một lối sống thì mình phải là tấm gương sống điều đó trước, muốn “tin điều con đọc – dạy điều con tin – thi hành điều con dạy” mới đem được đức tin gieo vào lòng người khác. Trong tất cả, gương sáng vẫn là điều có sức thu hút và lôi cuốn anh chị em lương dân hơn cả.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý và lên tiếng cảnh giác một số cám dỗ đối với người đang làm công việc mục vụ và truyền giáo như sau:
– Đừng đánh mất nhiệt tình truyền giáo nhưng hãy dấn thân gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế giới hay một niềm say mê loan báo Tin Mừng (số 79-80).
– Đừng ích kỷ và nguội lạnh thiêng liêng, đừng để mình bị cướp mất niềm say mê truyền giáo (số 81-83).
– Đừng đánh mất niềm hy vọng (số 84-86).
– Đừng đánh mất cộng đoàn của mình, xây dựng mối tương quan với người khác, đừng xa tránh hay cách ly với họ (số 87-92).
– Đừng đánh mất lý tưởng tình yêu huynh đệ, tránh tranh chấp lẫn nhau (số 98-101).
– Đừng để mất giá trị Tin Mừng, đừng tiêm nhiễm “thói thế tục trong đời sống thiêng liêng” (số 93-97).
Đánh mất giá trị Tin Mừng và bị tiêm nhiễm thói thế tục là phản chứng hơn cả, nhưng lại đang rất thời sự hiện nay. Mang trong mình các lời khấn, cam kết hay đoan hứa là vâng phục, khiết tịnh và khó nghèo, nhưng khi ra đi lại như ở một “đẳng cấp khác”:
Khó nghèo mà xài sang đồ hàng hiệu đắt tiền (phương tiện xe cộ, điện thoại, máy tính, tiện nghi phòng ốc…), noi gương Chúa Giê-su khó nghèo, nhưng mình là môn đệ lại “trò hơn thầy là dòng tan nát”. Lại nữa, thay vì lo truyền giáo thì lại lo tìm những mối quan hệ “con chiên lạc nhà Ít-ra-el béo tốt” để có tiền của vật chất.
Khiết tịnh nhưng xem ra thích lo “mục vụ cho tóc dài” hơn là đi đến với những người già, bất hạnh, xấu số, bệnh tật. Trong tất cả, vấn đề liên quan đến khiết tịnh là để lại tai tiếng nhất khi một nhà truyền giáo đi qua.
Vâng phục: Khi ở tu hội thì ngoan ngoãn, nhưng đến nơi truyền giáo rồi tự cảm thấy như “thoát quyền” và bắt đầu tự mình quyết định theo ý mình, bất phục bề trên và cộng đoàn sai đi cũng như yêu sách với bản quyền nơi được sai đến.
2. Một vài phương pháp truyền giáo.
Cùng với ơn Chúa Thánh Thần, sự hướng dẫn của Giáo Hội và phương thế từ tu hội, người truyền giáo tùy nghi với những sáng kiến của mình, dựa trên môi trường, hoàn cảnh, nhận thức của nơi truyền giáo.
Bài viết “Truyền Giáo dễ hay khó” của Lm. Giuse BCD, đăng trên website http//: dongten.net ngày 19/03/2015, đưa ra năm kỹ năng cơ bản trong ơn gọi truyền giáo” hay “năm bước truyền giáo” như sau:
– Thiết lập và phát triển tình bạn giữa tôi và đối tượng cần được truyền giáo. Nhiều người khi vừa đặt chân đến mảnh đất truyền giáo đã vội vàng lo ngại về sự khiếm khuyết ngôn ngữ bản địa của bản thân. Thực tế, có một thứ ngôn ngữ mà mọi người trên thế giới này đều có thể hiểu và câu thông với nhau, đó là ngôn ngữ của tình yêu. Khi bạn có tình yêu chân thực dành cho người bản địa, hầu chắc bạn có thể dễ dàng kết bạn với họ. Vì lẽ đó, người truyền giáo không nên e ngại về ngôn ngữ câu thông, nhưng nên khôn ngoan thiết lập mối tương quan tình bạn với bà con đang cần được nghe biết Tin Mừng. Tất nhiên, việc thông thạo ngôn ngữ và văn hóa của người bản địa là điều cần thiết, nhưng không phải là điều kiện tiên quyết để truyền giáo. Một lần nữa, chúng ta nên nhớ rằng bước đầu tiên của việc truyền giáo là thiết lập Tình Bạn, chứ không phải là nói về Chúa cho “dân ngoại” nghe ngay tức khắc. Nếu vừa gặp bà con đã vội vàng giới thiệu Chúa cho họ, thì e rằng hành động ấy sẽ khiến cánh cửa tâm hồn của bà con cũng vội vàng khép kín. Như thế, việc truyền giáo vô tình bị chặn đứng bởi chính người truyền giáo, chứ không phải bởi người bắt hại Đạo. Nói cách khác, một khi cánh cửa tâm hồn của người cần được nghe biết Tin Mừng bị đóng chặt, thì khó lòng khiến nó mở ra. Do đó, việc thiết lập tình bạn rất quan trọng và là nhịp cầu giúp chúng ta khởi sự việc truyền giáo. Thế nhưng, làm thế nào để thiết lập tình bạn, và giai đoạn này cần bao nhiêu thời gian? Thiết lập tình bạn tùy thuộc vào kỹ năng và phong thái riêng của mỗi người. Nếu bạn tiếp xúc với một người mới gặp, bạn tạo nên một không gian cởi mở, vui vẻ, thân thiện, chân thành…, thì khả năng kết bạn trở nên dễ dàng hơn. Bạn cũng không nên quá vồn vã khi vừa mới quen biết người khác và môi trường khác. Cần kiên nhẫn và quan sát. Cần tìm hiểu văn hóa và thói quen của đối phương. Có khi bạn chỉ cần hai hoặc ba lần gặp gỡ là có thể trở nên thân quen với người mới. Nhưng có khi bạn tốn khoảng một vài tháng mới có thể thân thuộc với đối tượng cần được kết bạn. Nói chung, kiên nhẫn và hài hòa là hai điều cần thiết trong việc thiết lập tình bạn. Thiết lập được tình bạn rồi, bạn cần xây dựng một mối tương quan đáng tin cậy cho người bạn của mình. Đây là bước thứ hai.
– Xây dựng lòng tin qua việc chia sẻ cuộc sống của nhau. Để có thể mở cửa tâm hồn của người bạn mới, bạn cần gõ cửa tâm hồn của họ trước. Để gõ cửa tâm hồn của họ, bạn cần xây dựng lòng tin tưởng. Nghĩa là, bạn hãy chứng minh cho họ thấy bạn là người đáng tin cậy, là chỗ dựa tinh thần của họ. Như thế, công việc bạn cần làm để xây dựng lòng tin chính là sự quan tâm của bạn dành cho họ. Bạn nên biết họ đang cần gì, họ thiếu thốn điều gì, gia đình và hoàn cảnh sống của họ ra sao, con cái họ ăn học thế nào, công việc mưu sinh của họ có bảo đảm không, sức khỏe của họ có ổn định không, v.v.. Có thể bạn không giúp họ cách trực tiếp, nhưng bạn có thể làm trung gian giúp họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn, san sẻ tất cả những gì bạn có với mọi khả năng của bạn. Làm được điều này, bạn đang xây dựng lòng tin với họ cách vững chắc, bền lâu… như một câu ngạn ngữ của nước ngoài diễn tả về tình bạn: “Một người bạn đích thực là một người luôn có mặt trong những nhu cầu của bạn mình” (A friend in needs is a friend indeed). Một khi họ tin tưởng bạn, bạn có thể gõ cửa tâm hồn của họ và họ sẵn sàng mở cửa để bạn bước vào mảnh đất thánh của con người họ.
– Đối thoại đức tin. Khi tình bạn trở nên tin tưởng và gần gũi, việc đối thoại đức tin ắt sẽ diễn ra cách tự nhiên. Dù bạn của bạn là một người chưa theo tôn giáo nào, hoặc đã là Phật tử, hoặc đã theo đạo Tin Lành…, thì việc đối thoại đức tin cũng sẽ rất cởi mở, một khi đã có một tình bạn chân thành với nhau. Tôi xin đưa ra một dẫn chứng cụ thể để minh họa cho việc đối thoại này. Một ngày nọ, bạn đến thăm người bạn mới quen thân. Người này mời bạn dùng bữa cơm gia đình. Trước khi ăn cơm, bạn làm dấu thánh giá và âm thầm cầu nguyện, thậm chí khá sốt sắng cầu nguyện, người kia hầu chắc sẽ chú ý hành động kỳ lạ của bạn. Cứ tự nhiên, họ sẽ thắc mắc và hỏi bạn về ý nghĩa của hành động ấy. Khi bạn giải thích cho họ nghe về niềm tin của bạn trong việc bày tỏ thái độ biết ơn với Đấng đã ban cho bạn có hạt gạo như một hạt ngọc làm lương thực nuôi sống thân xác bạn, khi đó bạn đang thực hành bước thứ ba này là đối thoại đức tin. Có thể họ sẽ hỏi bạn nhiều điều về niềm tin của bạn. Có thể họ không hỏi nhiều, không chú ý về hành vi cầu nguyện trước bữa ăn của bạn. Tuy thế, bạn cứ kiên nhẫn, rồi họ sẽ thắc mắc và hỏi bạn nhiều điều khi bạn duy trì bước thứ hai trong mối tương quan tình bạn, khi bạn luôn sống tốt, sống Lời Chúa giữa mối tương quan này. Mặt khác, nếu họ không thắc mắc gì về đức tin của bạn, thì bạn nên chủ động thắc mắc về đức tin của họ. Sự thắc mắc của bạn chính là khởi điểm của việc đối thoại đức tin. Khi sự đối thoại đức tin ngày một sâu rộng và hài hòa, bạn có thể nghĩ đến giai đoạn thứ tư của việc truyền giáo.
– Mời gọi cùng nhau cầu nguyện và tìm hiểu đức tin của nhau. Bạn có thể kết thúc việc đối thoại đức tin bằng lời mời gọi người bạn của mình tham gia một giờ cầu nguyện của bạn, hoặc của một nhóm bạn nào đó, hoặc tham dự Thánh Lễ, hoặc tham dự một dịp đại lễ của Đạo Công Giáo. Lúc này không còn một mình bạn là người truyền giáo nữa, mà là một cộng đoàn, là cả Giáo Hội đang cùng bạn truyền giáo, giới thiệu Chúa cho người bạn mới đến. Phần bạn, bạn hãy xin Chúa Thánh Thần làm việc mạnh mẽ trên người anh em này để họ có thể chia sẻ đức tin của họ và tìm hiểu đức tin của bạn. Nếu họ là người chưa đi theo tôn giáo nào, bạn có thể mời họ đến cộng đoàn cầu nguyện thường xuyên, hoặc gia tăng đối thoại đức tin với họ, để có thể tiến tới giai đoạn cao trào của việc truyền giáo, giai đoạn thứ năm.
– Chào mừng gia nhập Hội Thánh qua các Bí tích Khai tâm Ki-tô giáo. Đây là bước cuối cùng của sứ mạng truyền giáo, là hoa trái của quá trình truyền giáo, là giai đoạn chuẩn bị cho người bạn của mình gia nhập cộng đoàn những người tin theo Chúa. Như thế, bạn nên có những người cộng tác nhiệt thành, những cộng tác viên trong việc giảng dạy Giáo lý, để bàn giao công việc này cho họ. Nhờ đó, bạn có thời giờ để tiếp tục lên đường tiến tới những biên cương mới, gặp gỡ những người bạn mới, nhưng cũng không quên dành thời gian đồng hành với những người mới biết Chúa và quan tâm tới sự trưởng thành trong đời sống đức tin của họ, củng cố đức tin cho họ vào những dịp thuận tiện.
3. Vấn đề bách hại tôn giáo tại Việt Nam.
Thực tế, vô thần không thể đứng chung với người có đức tin, nên cộng sản VN tìm cách làm chủ tôn giáo, biến người theo đạo thành tay sai để phá hoại, nhưng phá hoại cách tinh vi, họ áp dụng giữa trên ý thức hệ chủ trương “tôn giáo là thuốc mê quần chúng”. Cộng sản vô thần cho rằng, nghèo đói và những gì vượt khỏi khả năng nên mới nghĩ ra thần linh để cầu cúng, rồi ảo tạo ra thần linh để tự an ủi mình, đến khi có được cái ăn cái mặc đầy đủ thì hết tin và tôn giáo sẽ biến mất. Từ đó họ rất khôn ngoan sử dụng cách loại trừ tôn giáo mang “tính hệ thống”. Tính hệ thống của cộng sản trước hết là họ áp dụng cách ru ngủ để làm người ta lơ là và quên đi..
Chủ nghĩa vô thần bách hại tôn giáo mang tính hệ thống có thể nói là thượng sách của họ, họ triệt hạ tôn giáo cách tinh vi, biến tôn giáo thành một nhóm và phải lệ thuộc họ, xin phép họ.
Những hình thức bên ngoài mang tính nhỏ lẻ như là chống đối ra mặt chỗ này chỗ kia, lên xúc phạm nơi thánh thiêng, đập tượng thánh, nhục mạ các linh mục tu sĩ, bạo động… là “hạ sách”, là ấu trĩ, là kém văn hóa, là thiếu kiến thức, là hành xử kém. Và ở cấp trên của những kẻ gây ra hạ sách ấy không hề muốn, vì làm như vậy sẽ tổn hại về mặt ngoại giao với các nước, và quan trọng hơn chỉ làm cho đức tin lớn mạnh và gia tăng người theo đạo. Bằng chứng lịch sử cho thấy: Càng bị bách hại, đạo càng gia tăng nhanh. Khi càng bắt bớ, chèn ép, thì sức mạnh càng bật tung lên, và những người dám chịu đựng và can đảm chết sẽ trở thành gương sống cho người khác. Cộng sản họ thấy rõ điều đó, và họ không muốn đi vào vết xe đổ của quá khứ, mà là bách hại cách tinh vi là bách hại mang tính hệ thống.
Theo triết gia Voltaire: “Ngay cả khi các ông không tin mà muốn cai trị dân, thì hãy ru ngủ dân để chúng trở thành như những con cừu các ông sẽ làm chủ được, có nghĩa là “muốn phá nó thì đừng chống nó và ru ngủ nó, đến một mức nào đó nó chết mà nó cũng không biết”. Chính sách này làm con người rất dễ bị mắc mưu, tựa như một con vật khó thuần phục cỡ nào, mà ta đưa về nuôi nó và cho nó ăn thì nó sẽ theo ta. CSVN muốn phá tôn giáo bằng cách cho tôn giáo có vẻ tự do như cuộc sống ở bên Âu Tây, cho đến một lúc nào đó người ta không đi nhà thờ nữa.
Chung quy lại, bách hại tôn giáo theo tính hệ thống của CSVN áp dụng ít nhất theo các cách sau:
– Thành công đầu tiên của các nước CS là can thiệp được vào việc bổ nhiệm Giám mục, CS không có quyền chọn, nhưng việc Tòa thánh muốn bổ nhiệm Giám mục phải hỏi ý kiến họ và họ có đồng ý hay không. Và cũng vì thế mà có thể nói: “Giám mục được bổ nhiệm, ngoài đẹp lòng Chúa còn đẹp mắt CS”.
– Chủ trương “nắm được tướng thì quân phải phục”. Các chức sắc trong tôn giáo nếu “biết im lặng”, thỏa hiệp, không chống đối ra mặt, thì dễ thăng tiến và thăng tiến rất nhanh. Những “vị im lặng” đa phần không phải không biết, nhưng có lẽ do “tham ghế mê quyền” và tư lợi nên quy phục CS, thậm chí làm tay sai cho họ.
– “An ninh chìm” ngầm theo dõi các tu sĩ, linh mục, giám mục ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ có cả một sổ sách ghi lại những khuyết điểm của các vị ấy, đặc biệt là những sai phạm về luân lý. Đợi khi lên chức, cai quản hay truyền giáo ở đâu (họ rất tạo điều kiện cho thăng chức vì họ biết sẽ trở thành con cờ của họ), họ nắm đàng chuôi, nên họ chỉ nhắc nhẹ riêng là răm rắp nghe theo. Điều này các “đấng” bị CS nắm thóp đầu chuôi không ít.
– Cái nguy hiểm nhất là hệ lụy mang tính dây chuyền, CS tác động vị có chức quyền cao mà đã “dính chàm” để can thiệp bề dưới phải vâng lời “nhà nước”.
– Nhiều vị dễ mắc mưu CSVN nhất là sự cho phép và hứa hẹn. Các cha sở hay các tu sĩ định làm một công trình hay tổ chức một việc gì đó, phía thế quyền cho phép và hứa hẹn, nhưng đề nghị ngày khởi công hay các chương trình làm thêm các băng rôn mang tính ủng hộ nhà nước và đặt tượng Cụ Hồ vào nơi thánh hay sân khấu, hoặc cho thêm một tiết mục văn nghệ nào đó về đảng và nhà nước. Vấn đề này, có đấng mắc mưu vì nhầm lẫn đó là hội nhập văn hóa hoặc đối thoại liên tôn, cũng có đấng nghe theo CS để được việc.
– Có những khi CS còn tìm cách len lỏi vào một cách trơ trẽn, như vụ một Giáo hạt ở Miền Trung, an ninh huyện mời các cha trong hạt giao lưu bóng đá. Khi chụp hình lưu niệm, họ bí mật giăng tấm phông nền phía sau với biểu ngữ ủng hộ đường lối của đảng. Sau này chúng đem hình lên mạng để tuyên truyền rồi các cha mới vỡ lẽ ra. Hay ở một xứ đạo kia, nhà cầm quyền xã tổ chức mít tinh mừng khánh thành Hội Trường xã, đã mời vị linh mục xứ đạo trong xã đó đem ca đoàn đến tham gia một tiết mục mừng đảng, thậm chí khuyến khích ai đăng ký lên hát được thưởng tiền. Cha xứ đã nhận lời và rồi chuyện gì sẽ xảy ra đã xảy ra.
– Chính sách “ném đá giấu tay” cũng được nhà cầm quyền áp dụng. Họ thuê mướn những “nhóm quần chúng tự phát” để sách nhiễu phá phách những nơi mà có vị phụ trách giáo xứ hay cộng đoàn dòng tu không thỏa hiệp với CS.
– Đánh tráo khái niệm gây nhầm lẫn tai hại, ví dụ CS dùng mỹ từ “tốt đời đẹp đạo” trong các lời kêu gọi cầu chúc trong các dịp lễ hay dịp tết và dịp kỷ niệm. Đâu biết rằng, tốt là bản chất, đẹp là bề ngoài, chúng ngầm ý cho rằng đạo chỉ là cái mã bề ngoài. Một cô gái đẹp chưa chắc gì cô ta đã tốt…
– Lợi dụng cái ủy ban “được gọi là đoàn kết” đội lốt Công Giáo (do CS lập ra), nhưng thực sự thay vì “đoàn kết” thì CS dùng chính “đàn két lờ mờ tờ sờ” trong đó để gây “chia rẽ” dân Chúa.
– “Giáo dục nhồi sọ”, luận điệu xuyên tạc về tôn giáo gieo vào thế hệ trẻ (như nói Đạo Công Giáo là tiếp tay với thực dân bán nước). Cấm tôn giáo lập các trường từ tiểu học trở lên (chỉ cho mở lớp mẫu giáo)…
– Âm thầm bắt lén những ai có chính kiến, sau đó mới khép cho một cái tội “phản động”.
– Ủng hộ các doanh nghiệp xây dựng những tòa nhà, lắp đặt những pano quảng cáo che khuất cơ sở tôn gió, hoặc phát hình ảnh hay âm thanh làm chia trí nhiễu loạn trong khi các tôn giáo đang cử hành việc phụng tự.
Chính sách “vừa đấm vừa xoa” nhưng dằn mặt thì ít mà ru ngủ thì nhiều xem ra nhà cầm quyền CS đang rất thành công tại Việt Nam lúc này, vì làm cho mọi thành phần tín hữu mất cảnh giác, cái sự no đủ và yên bình giả tạo đang làm cho người ta quên Chúa và đẩy tín hữu xa dần nhà thờ.
Phóng chiếu vào các tu sĩ hiệp hội chúng ta cách riêng, cách này cách khác chúng ta đã và đang bị bủa vây những điều trên mà nhà cầm quyền CS đưa ra. Ít nhiều chúng ta cũng đã và đang vướng mắc vào. Nếu có, hãy biết cẩn trọng biện phân, giữ vững lập trường theo gương thánh tổ truyền giáo Phao-lô Tông Đồ, đừng để mắc lừa, không thỏa hiệp cũng không bị cuốn theo. Của Xê-da trả lại Xê-da, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Xin chân thành cám ơn quý cha và quý thầy !
Ngày 04/08/2023
Lm. Pet. Nguyễn Hữu Đào
Nội dung: VÂNG LỜI & KỶ LUẬT
Bài 1: VÂNG LỜI HƠN CỦA LỄ.
- Vâng lời vì được lợi.
- Vâng lời một phần.
- Vâng lời vì sợ mất danh dự.
- Vâng lời hơn của lễ.
Bài 2: VÂNG LỜI LÀ CỦA LỄ.
- Vâng lời trong đức tin (Thánh ý và thánh chỉ).
- Vâng lời vì yêu mến (x. Hiến Pháp SSP, số 28).
- Vâng lời vì niềm hi vọng.
- Vâng lời là của lễ.
Bài 3: VÂNG LỜI ĐỂ CỨU ĐỘ
- Vâng lời nhờ khiêm tốn.
- Vâng lời trong cầu nguyện.
- Vâng lời để trở nên giống Chúa Giê-su.
- Vâng lời để cứu độ
Bài 4: VÂNG LỜI TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO
- Vâng lời qua lệnh truyền giáo.
- Vâng lời Thầy, con thả lưới (Lc 5,5).
- Vâng lời trong Thánh Thần.
- Thái độ khi vâng lời đi truyền giáo.
Bài 5: KỶ LUẬT CHO CHÍNH MÌNH
- Kỷ luật tự nguyện (cá nhân).
- Kỷ luật bắt buộc.
- Kỷ luật là làm chủ chính mình.
Bài 6: KỶ LUẬT TRONG CỘNG ĐOÀN
- Xác định mục đích mình chọn ơn gọi này.
- Đời sống cộng đoàn – Giữ luật thì luật giữ mình.
- Tuân giữ Hiến Pháp.
Bài 7: KỶ LUẬT VÀ VÂNG PHỤC
- Vâng lời Bề trên và những người có trách nhiệm.
- Anh em vâng lời nhau.
- Những phương thế giúp tu sĩ vâng phục.
Bài 8: GIỮ KỶ LUẬT KHI ĐI TRUYỀN GIÁO
- Đời sống kỷ luật của người truyền giáo.
- Một vài phương pháp truyền giáo.
- Vấn đề bách hại tôn giáo tại Việt Nam.
@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@
TĨNH TÂM MÙA VỌNG CHO SINH VIÊN
Chủ đề: SÁM HỐI
– Hát: Chúa Thánh Thần.
– Đọc Lời Chúa: Rm 13, 11-14
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng.
– Lời nguyện tự phát
– Chia sẻ:
Tĩnh tâm là gì thưa các em?
Là “ôn cố, tri tân”, là dịp chúng ta ngồi lại hồi tâm, chia sẻ và cầu nguyện, để duyệt xét lại thấy cái gì đã, đang xảy ra trong cuộc đời mình:
nhận ra được cái xấu, cái sai, cái dở để từ bỏ;
cái chưa được để điều chỉnh và hoàn thành;
cái được, cái hay, cái tốt, cái đẹp để phát huy.
Và vừa mới mở đầu thánh Phao-lô trong thư Rô-ma (các em vừa nghe đọc mở đầu) đã nói cho chúng ta giật mình luôn phải không?
Thánh Phao-lô nói: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”.
Nào là không ăn chè trà sữa, vì chè chén say sưa công an thổi nồng độ cồn mất 7 lít… nói vui thôi, chứ thánh Phao-lô khuyên chúng ta nghiêm túc: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, không cãi cọ ghen tương; mặc lấy Chúa Ki-tô, đừng chiều theo tính xác thịt, không thỏa mãn dục vọng.
Những điều khuyên này tương đương với 3 tuần mà chúng ta chuẩn bị cho Mùa Vọng:
Tuần 1: Tỉnh thức và sẵn sàng (ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày, đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng).
Tuần 2: Sửa lối, dọn đường, điều chỉnh đời sống (không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương).
Tuần 3: Vui mừng vì sắp được gặp Chúa Hài Đồng (hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô).
(có thể nói thêm tuần IV khi ngắn khi dài, ý nghĩa mang tâm tình của Mẹ Maria, thánh Giu-se, Giacaria, Elizabeth đón chờ Chúa).
Vậy thì tĩnh tâm đợt này, chúng ta cần nhấn mạnh đến điều gì nhất, nhất là nay đã tuần III Mùa Vọng và đặc biệt chuẩn bị cho các em nhận lãnh bí tích giao giao hòa?
Mà điều kiện đầu tiên và cần thiết nhất của một Người Công Giáo để xưng tội và được tha thứ là gì thưa các em? Đó là sám hối.
Vì vậy mà chủ đề mà tôi chọn để nói với các em hôm nay chính là: SÁM HỐI
Thế nhưng, chúng ta cũng cần phân biệt sự Sám Hối trong Mùa Vọng khác với sự Sám Hối trong Mùa Chay.
– Sám hối trong Mùa Chay là sự ăn năn hối hận để trở về cùng Thiên Chúa, giống như đứa con hoang đàng bỏ nhà ra đi nay ăn năn trở về, như đứa phản bội quay lại xin tha thứ… Như trong Thánh Kinh dân Do-thái hiểu rằng mình đã ký giao ước với Thiên Chúa và giao ước đã bị vi phạm do tội lỗi của dân, cần phải nối lại giao ước ấy. Để nối lại giao ước ấy người ta đã khẩn nài Thiên Chúa tha thứ bằng cách thực hành những việc khổ chế và những phụng vụ sám hối: chay tịnh (Tl 20,26 ; 1V 21,8tt), xé áo mình ra và mặc áo nhặm (1V 20,31t ; Is 22,12 ; x. Ga 3,5-8), nằm trên tro (Is 58,5 ; Sm 12,16). Trong các buổi cử hành phụng vụ, người ta rên siết (Tl 2,4 ; Gl 1,13).
– Còn Sám hối trong Mùa Vọng là mà một sự chuẩn bị gặp Chúa. Như dân Do-thái phải thanh tẩy mình để chuẩn bị đón nhận giao ước Si-nai… Như người ta chuẩn bị đón một vị vua hay một V.I.P, môt Giám mục hay vị chức sắc nào đó quan trọng… thì người ta phải lo dọn quét sửa đường cho đàng hoàng, cờ xí băng rôn biểu ngữ, quần áo chỉnh tề, trang hoàng nơi gặp gỡ, tập tành nghi lễ… Đặc biệt, như tâm tình người chuẩn bị đi gặp người yêu, háo hứng suốt đêm không ngủ mong ngóng đến giờ gặp nhau (Bài hát: Hoa Mười Giờ), lo trang điểm, chọn đồ, cứ phải làm sao để khi ra mắt người mình yêu phải là phiên bản hoàn hảo nhất… đúng không các anh chị?
Sự Sám Hối trong Mùa Vọng mà tôi muốn các anh các chị phải có là như vậy đó ! Là anh em phải chuẩn bị cả bề trong lẫn bề ngoài sao cho tốt đẹp nhất để đến lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta xứng đáng gặp Hài Nhi Giê-su của chúng ta.
Sự Sám Hối – Chuẩn Bị của Mùa Vọng chính là những điều chúng ta đã lược ra từ đầu:
Tuần 1: Tỉnh thức và sẵn sàng (ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày, đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng).
Tuần 2: Thanh tẩy – Sửa lối, dọn đường, điều chỉnh đời sống (không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương).
Tuần 3: Vui mừng vì sắp được gặp Chúa Hài Đồng (hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô).
- Tỉnh thức:
Thánh Phao-lô dặn: “Ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày…, đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13,13.14)
Thưa anh chị ! nói như thánh Phao-lô là “Đã đến lúc”, vâng, lúc này đây, ngay bây giờ này, chúng ta phải sống như người đang sống giữa ban ngày – ban ngày thì tỉnh chứ không phải ngủ – tỉnh (dĩ nhiên không phải tỉnh ngủ như em kia đang say kìa…).
Vâng, phải tỉnh, vì xã hội ngày nay đủ thứ ranh ma lừa đảo, nhất là trên mạng xã hội, chúng ta thầy đủ trò lừa đảo [1] (lược ra trong foonote, nếu có giờ cha kể cho họ nghe). Dĩ nhiên, đây là còn là điều đặt chúng ta phải chọn lựa mỗi ngày, sự chọn lựa này có khi thật sự là một cuộc chiến đấu. Hiện nay chúng ta không thiếu gì những mẫu gương: trước những vấn đề trong xã hội, giữa những vấn đề khác, chọn lựa cách hành xử theo Tin Mừng có thể đặt chúng ta hoàn toàn ngược dòng với những người chung quanh ta, có khi là những thân nhân nữa. Còn việc chọn lựa phải tha thứ, chúng ta biết rằng trong vài trường hợp là cả một cuộc đấu tranh nội tâm. Từ chối thoả hiệp, lo lót… cũng là bao nhiêu sự đấu tranh với chính mình, đối với những thói quen dễ dãi của xã hội chúng ta.
Ngoài cái “lừa tiền” ra thì có lẽ “lừa tình” là tinh vi hơn hết, bởi vì khi anh – chị – trai – gái gặp nhau là tự nguyện và tình cảm xác thịt che mờ lý trí.
Xã hội này nó tinh vi lắm, nó ma mị lắm, nó che dấu cái tội lỗi trong cái vỏ xinh đẹp, nó đanh tráo khái niệm và quan niệm sai về tình yêu để biện minh cho thỏa mạn dục tính, thậm chí nó vẽ ra bao lý lẽ chính đáng để biện minh làm cho chúng ta mất cảm thức về tội. Ví dụ, yêu thật lòng thì phải cho quan hệ, muốn chắc ăn chắc chắn tương lai phải sống thử làm thử, hay việc ăn ở trai gái là điều tự nhiên và chính đáng… Từ đó, đến một lúc làm chúng ta mất cảm thức về tội, thấy như là điều bình thường, chuyện đương nhiên, rồi thỏa hiệp với mọi điều xấu xa tội lỗi, nhất là những tội liên quan đến nam nữ phái tính. Chúng ta dính bẫy ma quỷ, thế gian và xác thịt lúc nào không hay. Tội lớn nhất của chúng ta như thánh Giáo hoàng Phao-lô VI nói: “Con người ngày nay mất cảm thức về tội”.
Vậy thì phải tỉnh thức thôi các anh các chị ! Tỉnh để không rơi vào cái bẫy như thánh Phao-lô dặn: đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng. Những hệ lụy và hậu quả của nó thì chính anh em đã thấy bao người đi trước mắt phải rồi, điều này được dạy ơ lớp “hôn nhân”, ở đây tôi không cần phải nhắc tới nữa.
Điều quan trọng là ngay lúc này, giờ này đây các anh các chị hãy TỈNH THỨC trước muôn vàn cám dỗ đó: “Hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13,12). Đó là điều sám hối đầu tiên của Mùa Vọng.
- Thanh tẩy:
Sửa lối, dọn đường, điều chỉnh đời sống (không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương).
Như chúng ta đã giới thiệu ở trên, sữ Sám Hối – Chuẩn Bị thứ hai trong Mùa Vọng chính là Dọn Đường, là THANH TẨY.
Chúng ta chuẩn bị đón ai gặp ai thì thời gian trước khi gặp chúng ta đều phải chuẩn bị cả. Gặp một bậc vị vọng, chúng ta phải chuẩn bị từ dọn dẹp nhà cửa, sạch sẽ đường sá, trang hoàng trang trọng, ăn mặc trang nghiêm, chuẩn bị cả lời ăn tiếng nói…
Đặc biệt, khi gặp người mình yêu nữa thì ối dồi ôi, phải nói là nó hồi hộp, nóng lòng và chuẩn bị chu đáo cỡ nào ! Tắm rửa sạch sẽ, xức nước hoa, tô son đánh phấn, chọn đồ ngắm cả trăm lần qua gương đã hợp chưa, phải nói thế này, phải ra vẻ thế kia, phải làm cái gì…v.v…
Cũng thế, tinh thần đến gặp chúa Giê-su Hài Đồng trong ngày Chúa Giáng Sinh phải là tâm tình của việc gặp Người là “Người Yêu Vĩnh Cửu”, người yêu không bao giờ phản bội của chúng ta. Vậy nên, chúng ta phải chuẩn bị cả tâm hồn lẫn thể xác sao cho tốt đẹp xứng đáng với sự trông đợi của Người.
Còn chuẩn bị như thế nào? Chúng ta hãy theo cách của thánh Gioan Tẩy Giả, làm ứng nghiệm lời ngôn sứ: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Is 40,3-5).
Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc.
Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu.
Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn.
Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người.
– “Thung lũng, phải lấp cho đầy”, nghĩa là phải nâng tâm hồn lên và sống thánh thiện xứng đáng với địa vị cao sang của người con của Chúa;
– “Núi đồi, phải bạt cho thấp”, nghĩa là phải sống khiêm tốn nhìn nhận yếu đuối của mình.
– “Khúc quanh co, phải uốn cho ngay”, nghĩa là phải sống ngay thẳng, công minh và chính trực. Phải có ý ngay lành trong mọi việc mình làm.
– “Đường lồi lõm, phải san cho phẳng”, nghĩa là hãy lánh xa những trở ngại làm chúng ta xa Chúa, như danh vọng, tiền tài và sắc dục.
- Vui mừng:
Vui vì sắp được gặp Chúa Hài Đồng (hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô). Vui là đúng thôi, chuẩn bị được gặp người mình yêu mà, đi gặp người yêu mà mặt như đưa đám ai coi?
Bao thời gian hồi hộp chờ đợi, chuẩn bị từ trong lẫn ngoài, giờ thời gian sát tới. Truyền thống Người Công Giáo trên thế giới bắt đầu vào tháng 12 là khắp nơi lo làm máng cỏ – hang đá trang hoàng thật đẹp, sau này ăn theo ra cả khách sạn, siệu thị, nhà hàng, quán café, công viên, đường phố, điểm du lịch…
Riêng các anh các chị, cái niềm vui của mọi niềm vui, ấy chính là được gặp Chúa, được mặc lấy Chúa như thánh Phao-lô nói với chúng ta trong bài Lời Chúa đọc đầu giờ. Phải, khi hai người yêu nhau những thứ quà cáp, thư từ, thăm gặp chỉ là phụ thuộc; cái đích cuối cùng mà anh hay chị nhắm tới là muốn được thuộc về nhau, “mặc lấy nhau”, trở thành của nhau. Chúa Giê-su yêu chúng ta, mọi ơn lành, lời dạy chỉ là phụ, cái cao quý nhất chính là kết hiệp với chúng ta qua Thân Thể của người là Bí tích Thánh Thể, trở thành Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa. Nên một với Chúa. Vui mừng vì được gặp nhau và kết hợp với nhau.
Trong Chúa nhật III Mùa Vọng [2], Giáo hội cho đọc thứ thánh Phao-lô gửi Giáo đoàn Phi-líp và được chọn làm Ca Nhập Lễ: “Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4,4-7).
Gặp Chúa thì vui, niềm vui thì lan tỏa, để mọi người nhìn thấy anh em vui mà được vui lây. Và niềm vui làm cho đời đáng sống, đạo đáng theo, người đáng yêu, hồn đáng thánh.
Kết:
Tóm lại, thưa các anh các chị !
Để chuẩn bị cho Giáng Sinh tới được tràn đầy viên mãn, mời gọi chúng ta có một sự Sám Hối – Chuẩn Bị qua ba tinh thần: Phải TỈNH, phải TẨY và phải VUI. Tỉnh trước mọi cạm bẫy của thế gian, Tẩy rửa mọi điều không thích hợp để đón Chúa và Vui vì được Chúa đến ở cùng chúng ta – Emmanuel.
Những sự chuẩn bị này của chúng ta không chỉ là sự chuẩn bị kỷ niệm việc Chúa Giê-su đến làn thứ nhất này, mà còn là một sự chuẩn bị trong sự tỉnh thức sẵn sàng đón chờ Chúa đến trong Vinh Quang Tái Lâm.
Để Tỉnh, Tẩy và Vui được thể hiện cách cụ thể, mời gọi quý anh chị chuẩn bị đón bí tích giao hòa.
– Đọc Kinh Sáng Danh hoặc hát bài về tạ ơn, kết thúc.
[1] – Giả danh cơ quan pháp luật yêu cầu nạn nhân chuyển khoản tiền vào số tài khoản do đối tượng cung cấp để điểu tra phục vụ.
– Giả danh nhân viên ngân hàng hướng dẫn cung cấp phần mềm rồi lấy thông tin và chiếm đoạt tiền trong tài khoản của nạn nhân.
– Lừa nâng cấp sim 4G: Nếu nạn nhân làm theo hướng dẫn sẽ mất số điện thoại và tài khoản ngân hàng đăng ký theo số điện thoại đó.
– Lừa đảo trúng thưởng: Gọi điện thông báo trúng thưởng (xe, điện thoại,…). Yêu cầu đóng phí để nhận thưởng rồi chiếm đoạt tiền.
– Bẫy tình trên mạng xã hội: Giả là người nước ngoài gửi quà về, sau đó giả làm nhân viên hải quan yêu cầu đóng phí mới nhận quà.
– Tuyển cộng tác viên đặt mua đơn hàng trên mạng, nhận tiền % 1-2 lần đầu, đến đơn hàng lớn hơn sẽ bị lỗi, không nhận được tiền.
– Mạo danh bảo hiểm xã hội thông báo nạn nhân đang nợ tiền hoặc trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội, yêu cầu đóng phí để chiếm đoạt.
– Chuyển tiền làm từ thiện: Lừa gửi tiền về làm từ thiện, bạn được hưởng 30-40%, sau đó giả làm hải quan yêu cầu đóng phí.
– Cho số lô, số đề để đánh: Để nhận được số phải đóng phí, không trúng thì mất phí. Nếu trúng phải chia hoa hồng cho đối phương.
– Hack facebook, zalo,…: Chiếm quyền đăng nhập vào tài khoản facebook, zalo…., nhắn tin cho bạn bè người thân hỏi mượn tiền.
– Giả danh nhân viên y tế gọi điện thoại thông báo người thân đang nằm viện cấp cứu trong bệnh viện, yêu cầu chuyển tiền ngay để mổ gấp.
– Tìm người làm việc ở nhà: Quảng cáo lợi nhuận thu hút người chơi, khi nạp số tiền lớn vào sàn thì sàn sập, không rút được tiền.
– Lập sàn giao dịch ảo: Gửi link để thanh toán trực tuyến. Yêu cầu nạn nhân chuyển tiền trước đặt cọc rồi chiếm đoạt toàn bộ số tiền.
– Mua bán hàng trực tuyến: Gửi link để thanh toán trực tuyến. Yêu cầu nạn nhân chuyển tiền trước đặt cọc rồi chiếm đoạt toàn bộ số tiền.
– Chuyển tiền nhầm để ép vay: chuyển tiền vào tài khoản nạn nhân, sau một thời thì yêu cầu trả tiền như một khoản vay và đóng lãi.
– Mạo danh công ty tài chính: Cung cấp khoản vay tiền lãi suất thấp, thủ tục đơn giản, yêu cầu nạn nhân đóng phí vay rồi chiếm đoạt.
– Giả danh cán bộ xử lí giao thông thông báo nạn nhân từng vi phạm lỗi giao thông và liên quan đến đường dây tội phạm, yêu cầu chuyển tiền để phục vụ điều tra.
– Gọi điện thoại khủng bố đòi nợ người vay và cả bạn bè, người thân của người vay.
Giả danh lãnh đạo lập facebook, zalo… rồi sử dụng hình ảnh, uy tín của lãnh đạo nhắn tin cho cấp dưới để vay tiền.
– Giả danh cán bộ viễn thông thông báo nạn nhân nợ cước hoặc tín dụng, sau đó giả làm công an yêu cầu đóng tiền để phục vụ kiểm tra.
– Trả lời nđiện thoại, tắt máy mất tài khoản, mất tiền…
[2] Gọi là “Chúa Nhật áo hồng Gaudete”. Gaudete là chữ đầu trong bài Ca nhập lễ : “hãy vui luôn”.
Discussion about this post