…
PHẦN II. TỔNG QUÁT CÁC THƯ PHAOLÔ
I. Thể loại thư
I. 1 Công thức chung
Từ trước công nguyên, người ta đã dùng thư từ để thông tri liên lạc. Hiện nay, còn giữ lại được ngàn hàng bức thư viết vào thời trước và sau công nguyên, trên giấy papyrus hoặc trên các cuộn papyrus (nếu thư dài). Thư hoặc do chính tác giả viết, nhưng thường tác giả đọc cho thư ký viết, hoặc thư ký soạn theo nội dung của tác giả có sẵn. Cuối thư, tác giả viết vài hàng làm tin để chào hỏi thay chữ ký.
Thư từ có công thức chung:
- Địa chỉ vắn gọn: tên người gởi, người nhận, lời chào đầu thư
- Phần thân trình bày nội dung thư. Trong các thư quan trọng, tùy theo nội dung thư: bác bỏ hay bảo vệ một ý kiến, kết án một hành vi, khích lệ một hành động…, tác giả dùng thuật tu từ Hy-La, gồm: nhập đề(exordium), trình thuật các sự kiện (narratio), tiêu khiển (digressio), xác định đề tài (propositio), lập luận, minh chứng, lý giải (confirmatio), kết luận (peroratio). Hai phần propositio và confirmatio quan trọng nhất của phần thân thư.
- Kết thư là một lời chào ngắn gọn, thường do tác giả viết thay chữ ký.
Ta gặp trong Cựu Ước các thư Gr 29,1-13; 2Mcb1,1t.
Tân Ước ghi lại 13 thư Phaolô, thư Do thái và 7 thư chung. Ngoài ra còn một số thư khác. V/d: Cv cho biết các Tông đồ viết thư gởi các tín hữu, thông tri quyết định của Công đồng Giêrusalem về việc không cắt bì cho người ngoại trở lại (Cv 15,22). Trong Khải huyền có 7 thư gởi các 7 giáo đoàn (Kh 2-3).
Nói chung, các Tông đồ vẫn dùng công thức chung, nhưng thêm vào những chi tiết đặc biệt theo mỗi tác giả và lời chúc lành, tạ ơn mang tính tôn giáo.
I. 2 Khảo luận dưới dạng thư (épitre)
Người ta phân biệt thư (lettre) viết cho một người hay một nhóm, một cộng đoàn, nhân một cơ hội. Epitre là khảo luận về một đề tài được soạn dưới hình thức thư nhắm đến đại chúng. Thư Phaolô thuộc dạng nào?
Thực tình, dầu Phaolô đã được hấp thụ nền giáo dục Hy-La cổ điển và có trí thức cao, các thư của ngài cũng khó được xếp ngang hàng với các tuyệt tác văn chương của Ciceron. Tuy nhiên, người ta cũng không thể liệt thư Phaolô vào loại bình dân. Ông đứng ở giữa, nghĩa là các thư Phaolô vừa là thư gởi cá nhân hay cộng đoàn, vừa là khảo luận về một chủ đề nhất định. Đầu tiên, thư viết cho cá nhân hay một cộng đoàn, nhưng được đọc trong các cuộc hội họp hay trong các buổi cử hành phụng vụ của cộng đoàn. Ta có thể coi đó như những thư luân lưu, thịnh hành trong Do thái giáo và được các Tông đồ làm cho thêm phong phú.
II. Các thư Phaolô
1. Một cái nhìn chung
Giáp mặt thường khó nói lên sự thật; và nếu có nói thì phải rất tế nhị! Nhưng từ xa, bằng thư từ, người ta dễ trình bày vấn đề cách trung thực và thoải mái hơn. Đọc 2Cr 10,1-11; 1Cr 2,1-5 ta cảm nhận Phaolô, từ xa, thật tình nhận ra sự nhỏ bé của mình, nhưng ngài cũng chân thành khẳng định thế giá Tông đồ của mình chẳng thua kém các Tông đồ về ơn gọi cũng như về hiểu biết (2Cr 11,5). Bằng thư từ, Phaolô không ngại nói thẳng và rõ ràng điều mình nghĩ, đồng thời cũng không áp đặt trên cộng đoàn. Vì nhu cầu của các giáo đoàn, Phaolô đã viết nhiều thư để khích lệ, giải quyết các vấn đề, trả lời những vấn nạn…
Phaolô áp dụng công thức thông thường về thư từ thời ấy nhưng triển khai hơn, cụ thể 1Tx và nhất là Rm.
- Mở đầu là địa chỉ, lời chào, và công thức tạ ơn vì cộng đoàn đã được nhận biết Tin Mừng Chúa Kitô. Tiếp theo thường là một khẩn cầu cho chính cộng đoàn đó. Trong thư Gl, không có lời tạ ơn, nhưng thay vào là lời cảnh cáo. Các thư Phaolô tỏa lan bầu khí phụng vụ vì ngài biết chúng sẽ được đọc trong các cử hành phụng vụ.
- Phần thân trình bày đề tài. Phaolô thường trình bày một hay nhiều điểm liên quan đến đời sống Kitô hữu. Sau phần trình bày là những lời khuyến dụ và khích lệ.
Ta nhận thấy trong phần thân này, Phaolô đã xử dụng thuật tu từ Hy-La trong nhiều thư quan trọng để trình bày các luận chứng của mình.
Ví dụ:
Thư Rôma Exordium: 1,8-15; propositio: 1,16-17; confirmatio: 1,18-11,36; exhortatio:12,1-15,13; peroratio:15,14–16, 23.
Thư Galát : Exordium: 1,6-11; narratio: 1,12-2,14; propositio: 2,15-21; confirmatio:3,1-4,31; (digressio: 3,19-25); exhortatio: 5,1-6,10; PS 6,11-18.
Thư 1Côrinthô: Exordium: 1,6-10; confirmatio: 1,11 – 5,1; exhortatio 5,2-6,10; peroratio: 6,11-18.
1Thessalonica: Exordium: 1,2-10; refutatio: 2,1-8; narratio: 2,9–3,13; confirmatio: 4,1-5,22; peroratio: 5, 23-28.
- Phần kết là lời chúc bình an và chào kết thư.
2. Xếp loại các thư Phaolô
a. Xét theo tầm quan trọng
Trong Tân Ước, các thư Phaolô không được xếp theo thứ tự thời gian biên soạn, nhưng theo tầm quan trọng thần học hoặc theo độ dài ngắn của mỗi thư. Theo cách này, có thể phân thành 4 loại:
- Bốn thư quan trọng viết trong hành trình truyền giáo III: Rm, 1-2Cr, Gl.
- Bốn thư viết trong tù (ngục thư): Ep, Pl, Cl và Plm.
- Hai thư Tx viết trong hành trình truyền giáo II.
- Ba thư mục vụ: 1-2Tm và Tt.
- Xét theo thời gian
Nếu xét theo thứ tự thời gian mà các thư xuất hiện, ta có bảng xếp như sau:
- 1Tx được viết từ Corintô, có lẽ vào khoảng năm 50 / 51, trong hành trình truyền giáo II. Các thư khác đều được viết trong hành trình III.
- Pl và Plm được viết năm 52 trong tù Ephêsô.
- 1Cr viết tại Ephêsô mùa Phục sinh 53.
- Thời gian di chuyển trong năm 53, Phaolô viết những bức thư kết thành 2Cr.
- Thư Gl viết tại Thessalonica hay Philippê năm 54.
- Thư Rôma viết tại Corintô vào mùa đông 58, để chuẩn bị cho dự tính đến Rôma và truyền giáo tại Tây Ban Nha. Ngài thấy cần phải xác định tính đích thực của Tin Mừng do ngài rao giảng tại một giáo đoàn không do ngài thiết lập. Vả lại, tại Rôma phần đông Kitô hữu gốc ngoại có khuynh hướng khinh dễ các Kitô hữu gốc Do thái, nên cần viết thư trước để làm quen và nhờ giáo đoàn yểm trợ để ngài có thể đến Rôma và truyền giáo tại Tây Ban Nha.
7 thư trên đây được coi là những thư đích thực do Phaolô viết. Những thư khác Col và Ep viết trong tù cùng với các thư Pl và Plm, 2Tx lấy lại 1Tx, nhưng sửa đổi văn từ, nhất là sửa lại quan niệm về ngày quang lâm của thư 1Tx, 3 thư mục vụ (1-2Tm và Tt) có nhiều điểm về cuộc đời Phaolô không ăn khớp với những thư khác, nhiều tư tưởng và hoạt động không trùng hợp với tư tưởng của Phaolô (v/d: việc tổ chức các giáo đoàn).
Thư Cl và Ep có rất nhiều tương đồng. Người ta nhận thấy từ ‘Seigneurie’ được dùng 25 lần trong chỉ hai thư này, cùng một bút pháp (câu dài, lặp lại, đồng nghĩa), cả hai đều có thánh thi Kitô (Cl 1,15-20; Eph 1,3-14), 115 câu trong Ep thì có 75 câu gặp trong Cl. Dựa vào những nhận định trên mà các nhà chuyên môn cho rằng Cl có trước Ep. Cl đưa Kitô học của Phaolô vào các phạm trù mầu nhiệm Thiên Chúa. Ep triển khai Cl và rút ra những kết quả Giáo hội học. Cả hai thư đều kể đến những cộng sự viên của Phaolô. Số ít tác giả nhìn nhận tính đích thực Phaolô của hai thư này; số khác lại nhận chính Phaolô viết thư Cl.
Những khác biệt ấy có thể được lý giải bằng ba cách:
- Khác biệt phát sinh do sự phát triển của các cộng đoàn, hoặc do hoàn cảnh riêng của Phaolô (chẳng hạn bị tù).
- Khác biệt do thư ký được tự do viết.
- Dễ chấp nhận hơn cả đó là: một số ý kiến cho rằng các thư ấy xem ra giống với những tác phẩm của những năm 60–100 (Tin Mừng, các thư chung) hơn là với các thư đích thực do Phaolô viết. Bối cảnh của những năm ấy là đa thần học. Các dòng tư tưởng trong Giáo hội bấy giờ trào vọt vượt quá gia sản Phaolô để lại, đến nổi 2 Ph 3,15 nói rằng tư tưởng Phaolô bị xuyên tạc. Vì thế, cần phải viết lại dòng tư tưởng Phaolô, đồng thời cũng phải lưu tâm đến các thần học khác của các sách Tin Mừng cũng như của các Tông đồ.
Qua việc khảo cứu các thư, ta nhận thấy thánh Phaolô vừa là nhà thần học đầu tiên của Giáo hội, trình bày các tư tưởng của mình, đồng thời là vị Tông đồ chủ chăn tận tình quan tâm đến đời sống và những vấn đề liên quan đến Giáo hội, đặc biệt những cộng đoàn do Ngài thiết lập. Trong thư, ngài còn viết lên những lời cầu nguyện tha thiết, những lời chúc tụng Thiên Chúa và những đoạn nói về kinh nghiệm huyền nhiệm của chính mình. Điều cần lưu ý là thánh Phaolô rất ít nói đến những ân huệ đặc biệt Chúa dành cho ngài, ít nói về chính mình. Nếu phải nói điều gì liên quan đến bản thân, ngài nói vắn tắt trong những trường hợp phải đối kháng với những người chống đối hoặc phủ nhận thế giá Tông đồ của ngài, hoặc vì ích lợi thiêng liêng của các Kitô hữu… Ngài thích nói đến những yếu hèn của mình để cho thấy tình yêu nhưng không và quyền năng hoạt động của Thiên Chúa.
Tư tưởng Phaolô vừa mang tính hiện sinh vừa hướng về nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Thật vậy, các thư không phải là những khảo luận thần học suy lý cho bằng xuất phát từ những vấn đề cụ thể của cuộc sống và nhằm phục vụ công cuộc rao giảng Tin Mừng cứu độ, chứ không có tính cách suy lý trừu tượng. Điều cốt yếu là thánh nhân đã đặt ra và giải quyết vần đề tương quan giữa Do thái giáo và Kitô giáo sơ khai. Chính nhờ thánh Phaolô mà ngay từ buổi đầu, Kitô giáo đạt tầm vóc một tôn giáo đích thực, chứ không phải một giáo phái thuộc Do thái giáo như nhiều người chủ trương.
Discussion about this post